TRƯỜNG THPT SỐ 1 TƯ NGHĨA - HỘI CỰU HỌC SINH 87TƯNGHĨA
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Thống Kê
Hiện có 2 người đang truy cập Diễn Đàn, gồm: 0 Thành viên, 0 Thành viên ẩn danh và 2 Khách viếng thăm :: 1 Bot

Không

[ View the whole list ]


Số người truy cập cùng lúc nhiều nhất là 104 người, vào ngày Sun Jan 07, 2018 11:04 pm
Latest topics
» Nhạc tổng hợp
Việt Sử                 - Page 2 I_icon_minitimeWed Dec 16, 2020 12:30 am by phannguyenquoctu

» Hình vui
Việt Sử                 - Page 2 I_icon_minitimeSat Aug 29, 2020 2:45 pm by phannguyenquoctu

» Các bài Thuốc Nam
Việt Sử                 - Page 2 I_icon_minitimeFri Jul 10, 2020 1:50 am by phannguyenquoctu

» Bạn Lê Ngọc Khôi, một chiến binh thầm lặng
Việt Sử                 - Page 2 I_icon_minitimeWed Jul 08, 2020 10:06 pm by phannguyenquoctu

» 87SG Một ngày không như mọi ngày
Việt Sử                 - Page 2 I_icon_minitimeWed Jun 24, 2020 4:16 pm by phannguyenquoctu

» Chị Tống Minh Hương
Việt Sử                 - Page 2 I_icon_minitimeSun Jun 14, 2020 1:49 am by phannguyenquoctu

» Ca dao củ Chuối
Việt Sử                 - Page 2 I_icon_minitimeSat Jun 13, 2020 10:24 am by phannguyenquoctu

» 30 năm ra trường
Việt Sử                 - Page 2 I_icon_minitimeFri Jun 12, 2020 11:27 am by phannguyenquoctu

» Bạn Phan Tấn Hoàng mãi ở lại trong lòng gia đình, người thân, của 87TuNghia và bạn bè thân hữu
Việt Sử                 - Page 2 I_icon_minitimeFri Jun 05, 2020 12:00 am by phannguyenquoctu

» Thầy Trần Thiếu Lượng
Việt Sử                 - Page 2 I_icon_minitimeMon Nov 25, 2019 12:51 am by phannguyenquoctu

» Tuyển Tập Những Bài Thơ Chế Vui Về Học Sinh
Việt Sử                 - Page 2 I_icon_minitimeTue Sep 10, 2019 10:20 pm by phuongtiuthu

» Truyện cười Việt Nam bá đạo nhất
Việt Sử                 - Page 2 I_icon_minitimeFri Aug 30, 2019 10:43 pm by phuongtiuthu

» Cơ cấu tổ chức Hội 87TưNghĩa
Việt Sử                 - Page 2 I_icon_minitimeSun Aug 18, 2019 6:46 pm by phannguyenquoctu

» 87SG THÔNG BÁO (05/05/2011)
Việt Sử                 - Page 2 I_icon_minitimeSat Aug 17, 2019 11:42 am by phannguyenquoctu

» Giãn tĩnh mạch
Việt Sử                 - Page 2 I_icon_minitimeSat Aug 17, 2019 1:18 am by phannguyenquoctu

» Chào mừng Ngày nhà giáo Việt Nam 20/11 2010
Việt Sử                 - Page 2 I_icon_minitimeSat Aug 17, 2019 12:24 am by phannguyenquoctu

» Ho tro cho ban Hong Anh
Việt Sử                 - Page 2 I_icon_minitimeFri Aug 16, 2019 11:53 pm by phannguyenquoctu

» Những tình khúc vượt thời gian
Việt Sử                 - Page 2 I_icon_minitimeTue Jul 02, 2019 2:41 am by phannguyenquoctu

» Những tình khúc vượt thời gian
Việt Sử                 - Page 2 I_icon_minitimeTue Jul 02, 2019 2:19 am by phannguyenquoctu

» Phan Nguyễn Quốc Tú
Việt Sử                 - Page 2 I_icon_minitimeWed May 08, 2019 12:56 am by phannguyenquoctu

» Võ thuật tổng hợp
Việt Sử                 - Page 2 I_icon_minitimeTue Mar 12, 2019 12:23 am by phannguyenquoctu

» Kiến thức Y học tổng hợp
Việt Sử                 - Page 2 I_icon_minitimeTue Mar 12, 2019 12:05 am by phannguyenquoctu

» Gõ đầu trẻ
Việt Sử                 - Page 2 I_icon_minitimeThu Jan 03, 2019 1:26 pm by phannguyenquoctu

» TỦ SÁCH LÝ SƠN
Việt Sử                 - Page 2 I_icon_minitimeThu Jan 03, 2019 12:07 pm by phannguyenquoctu

» Thầy Nguyễn Khoa Phương
Việt Sử                 - Page 2 I_icon_minitimeThu Nov 15, 2018 11:41 pm by phannguyenquoctu

Top posting users this week
No user

Top posting users this month
No user

Top posters
phannguyenquoctu (7587)
Việt Sử                 - Page 2 I_vote_lcapViệt Sử                 - Page 2 I_voting_barViệt Sử                 - Page 2 I_vote_rcap 
TLT (2017)
Việt Sử                 - Page 2 I_vote_lcapViệt Sử                 - Page 2 I_voting_barViệt Sử                 - Page 2 I_vote_rcap 
letansi (1008)
Việt Sử                 - Page 2 I_vote_lcapViệt Sử                 - Page 2 I_voting_barViệt Sử                 - Page 2 I_vote_rcap 
le huu sang (320)
Việt Sử                 - Page 2 I_vote_lcapViệt Sử                 - Page 2 I_voting_barViệt Sử                 - Page 2 I_vote_rcap 
lamkhoikhoi (299)
Việt Sử                 - Page 2 I_vote_lcapViệt Sử                 - Page 2 I_voting_barViệt Sử                 - Page 2 I_vote_rcap 
pthoang (257)
Việt Sử                 - Page 2 I_vote_lcapViệt Sử                 - Page 2 I_voting_barViệt Sử                 - Page 2 I_vote_rcap 
luck (220)
Việt Sử                 - Page 2 I_vote_lcapViệt Sử                 - Page 2 I_voting_barViệt Sử                 - Page 2 I_vote_rcap 
sóng cát trùng dương (209)
Việt Sử                 - Page 2 I_vote_lcapViệt Sử                 - Page 2 I_voting_barViệt Sử                 - Page 2 I_vote_rcap 
hatinhve (181)
Việt Sử                 - Page 2 I_vote_lcapViệt Sử                 - Page 2 I_voting_barViệt Sử                 - Page 2 I_vote_rcap 
Admin (156)
Việt Sử                 - Page 2 I_vote_lcapViệt Sử                 - Page 2 I_voting_barViệt Sử                 - Page 2 I_vote_rcap 

May 2024
MonTueWedThuFriSatSun
  12345
6789101112
13141516171819
20212223242526
2728293031  

Calendar Calendar


Việt Sử

Trang 2 trong tổng số 4 trang Previous  1, 2, 3, 4  Next

Go down

Việt Sử                 - Page 2 Empty Re: Việt Sử

Bài gửi  phannguyenquoctu Wed May 31, 2017 3:20 am

NGUYỄN HỮU CHỈNH - CHỈ VÌ CÁI THẾ



Việt Sử                 - Page 2 Huuchinh


Lịch sử là một quá trình nhận thức và nhận thức lại, trên cơ sở sử liệu, mỗi giai đoạn lịch sử, căn cứ tình hình chính trị - xã hội có sử luận khác nhau. Về  sự nghiệp triều Tây Sơn và vua Quang Trung, một nhân vật phản diện được nhắc đến là Nguyễn Hữu Chỉnh.


Không biết suy luận thế nào mà câu ca dao đậm màu sắc tình duyên :


Ai đem con sáo sang sông
Để cho con sáo sổ lồng bay xa




Có người cho là nói về Nguyễn Hữu Chỉnh khi Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ cho Nguyễn Hữu Chỉnh theo ra Bắc và để lại ở đó để sau này làm phản và bị Vũ Văn Nhậm giết đi. Thế nhưng bài Vịnh pháo thì lịch sử văn học và chính sử xác định là của Nguyễn Hữu Chỉnh. 2 bài vịnh tứ tuyệt phản ánh đúng cuộc đời Nguyễn Hữu Chỉnh :


Pháo mới kêu to một tiếng đùng ,
Hỡi ơi xác pháo đã tan không .
Tiếc thay thân pháo không còn nữa ,
Nhưng đã tan ra vạn sắc hồng .


Giấy xanh giấy đỏ cậy tay người ,
Bao nả công trình tạch cái thôi .
Kêu lắm lại càng tan xác lắm ,
Trước sau cũng một tiếng trên đời.


“Kêu lắm lại càng tan xác lắm” chính là cuộc đời Nguyễn Hữu Chỉnh. “Kêu” của Nguyễn Hữu Chỉnh có cơ sở. Ông đỗ Hương cống (tức Cử nhân) năm mới 16 tuổi và có thế nói là văn võ song toàn khi về võ ông đỗ Tam trường, ngang với cử nhân văn.


Khi về với Tây Sơn, Nguyễn Hữu Chỉnh là tác giả của chiến dịch “phù Lê diệt Trịnh”, Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc và cũng chính Chỉnh là người mai mối vua Lê gả Công chúa Lê Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ khi Nguyễn Huệ không hài lòng cái tước Phù Chính Duệ Vũ Uy Quốc Công. Rõ ràng đây là một cuộc hôn nhân chính trị nhưng sau đó tình yêu thực sự nảy nở giữa người anh hùng áo vải và nàng công chúa lá ngọc cành vàng.


Quan hệ giữa Chỉnh với Nguyễn Huệ khi chưa lên ngôi hoàng đế có chuyện kể rằng khi Chỉnh nói : Người tài ở Bắc Hà chỉ có một mình Chỉnh mà thôi, nay tôi đã đi rồi (Về dưới trướng Tây Sơn - NV), ấy là cái nước rỗng không, xin ngài chở nghi ngại. Nguyễn Huệ cười bảo : “ Không nghi ngại người nào khác, chả hóa ra chỉ có ông là đáng nghi ngại thôi ư ?” (sách Hoàng Lê nhất thống chí). Sách cũng viết rằng, khi nghe câu này, Nguyễn Hữu Chỉnh tái mặt.


Một nhân vật phức tạp như Nguyễn Hữu Chỉnh phải đặt trong nhiều mối quan hệ, đó là quan hệ với Tây Sơn, với vua Lê và chúa Trịnh. Không phải ai khác mà chính Nguyễn Hữu Chỉnh là người đắc dụng trên con đường tiến quân ra Bắc với danh nghĩa phù Lê của Nguyễn Huệ. Với chúa Trịnh có thực quyền nhưng trái đạo lý, nạn tham nhũng, kiêu binh, lộng quyền cũng đến thời cáo chung. Phức tạp nhất là khi Chỉnh về với Tây Sơn và làm phản Tây Sơn để rước họa sát thân.


Thật sự thì Nguyễn Hữu Chỉnh không muốn làm phản Tây Sơn vì hơn ai hết chính ông ta thấy xu thế của thời cuộc. Khi Nguyễn Huệ muốn tiến quân ra Bắc để diệt Trịnh nhưng chưa có lệnh của vua anh, Nguyễn Hữu Chỉnh nói : Trong kinh Xuân Thu có nói, thay đổi nhỏ mà công lao lớn, ấy là có công, huống hồ tướng ở ngoài, có khi mệnh vua không cần phải theo. Ông ta đã chỉ ra : Ngài (tức Nguyễn Huệ - NV) vâng mệnh ra lấy Thuận Hóa, đánh một trận mà xong, oai danh lừng lẫy khắp thiên hạ. Trong phép dụng binh có ba điều cốt yếu : một là thời, hai là thế, ba là cơ, có ba điều ấy đánh đâu cũng thắng. Nay Bắc Hà tướng lười, binh kiêu, triều đình không còn kỷ cương gì cả, ta thừa kế đánh lấy, như trong sách đã nói “ chiếm nước yếu, đánh nước ngu, lấy nước loạn, lấn nước suy vong “.


Quả thật, Nguyễn Hữu Chỉnh luận như thời Đông Chu liệt quốc và gian hùng như Tào Tháo thời Tam Quốc !


Khi Tây Sơn về Nam, Nguyễn Hữu Chỉnh biết thế của mình không thể ở lại Bắc Hà vì đã là một phản thần nhưng Tây Sơn không dung nạp, kêu ở lại Nghệ An và cùng đường, Nguyễn Hữu Chỉnh làm phản và chính ông đưa Lê Chiêu Thống sang Tàu, khi đến Mục Sơn, con ngựa ông bị què, quân Tây Sơn bắt được, đưa về Thăng Long, Vũ Văn Nhậm luận tội hành hình.


Trần Châu (khóa lớp 1969 – 1976)
phannguyenquoctu
phannguyenquoctu

Tổng số bài gửi : 7587
Join date : 25/10/2010
Age : 56
Đến từ : Sài Gòn

Về Đầu Trang Go down

Việt Sử                 - Page 2 Empty Re: Việt Sử

Bài gửi  phannguyenquoctu Wed May 31, 2017 3:26 am

Võ tướng văn tài Nguyễn Hữu Chỉnh
(1741 - 1787)



Việt Sử                 - Page 2 2008091917242893949525_t


Nguyễn Hữu Chỉnh (1741-1787) hiệu Bằng Lĩnh Hầu, quê làng Cổ Đan xã Đông Hải huyện Chân Phúc, nay là xã Phúc Thọ, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, là con trai trưởng của Đại phu đô đốc, Phủ tả đô đốc Thái bảo Hải quận công - phú thương Nguyễn Mẫn.


Sinh ra trong một gia đình giàu có, thuở thiếu thời Nguyễn Hữu Chỉnh đã nổi tiếng thông minh vượt trội so với bạn bè cùng trang lứa. Lên 6 tuổi được cha mẹ cho đi học, 9 tuổi Nguyễn Hữu Chỉnh đến mừng thầy học nhân Tết Nguyên đán, thầy cho một tràng pháo và bảo làm một bài thơ Nôm vịnh pháo, cậu ứng khẩu đọc:
Xác không vốn những cậy tay người
Khôn khéo làm sao nữa cũng rơi
Kêu lắm lại càng tan tác lắm
Chung quy chỉ một tiếng mà thôi
Thầy học nói với mọi người: Tương lai sự nghiệp của thằng bé này tất to lắm. Nhưng làm loạn thiên hạ cũng là nó đấy.
Thầy lại bảo làm đôi câu đối dán cổng, cậu viết:
Mở khép càn khôn, có ra tay mới biết
Ra vào tướng tướng, thử liếc mắt mà coi.
Ai nấy đều phục là khẩu khí một vị anh hùng.
Về văn nghiệp, Nguyễn Hữu Chỉnh là một trong số các nhà Nho tài tử có tác phẩm tiêu biểu được in trong cuốn Nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam của PGS.TS. Trần Ngọc Vương (Nxb Giáo dục, 1995). Về đường binh nghiệp, ông là võ tướng “bạch thủ thành gia” - tay trắng làm nên sự nghiệp lớn. Khi đỉnh cao hiển đạt ông là người “quyền bất thất kinh” - quyền biến mà không làm mất đạo lý kinh nghĩa.
Theo sơ đồ gia phả dòng họ Nguyễn Hữu do ông Nguyễn Hữu Dinh (58 tuổi ở xóm 7 xã Phúc Thọ) cung cấp, vợ chồng cụ Nguyễn Mẫn và bà chánh thất Nguyễn Thị Hùng Nhị sinh hạ 2 trai 5 gái, trai trưởng là Bằng Lĩnh Hầu Nguyễn Hữu Chỉnh (1741-1787), trai thứ là Như Đan Bá Nguyễn Hữu Nghiêm.
Thi đậu Hương cống (Cử nhân) năm 16 tuổi, nhưng giữa thời vua Lê chúa Trịnh năm phe bảy phái tranh giành quyền lực, đẩy muôn dân vào cảnh huynh đệ tương tàn, Nguyễn Hữu Chỉnh không cố níu giữ ngọn bút lông, không muốn đời mình cùn mòn trong giáo lý, ông nhập thế bằng lục thao tam lược. Nung chí lập nghiệp bằng nghề võ, Nguyễn Hữu Chỉnh dày công luyện tập trong suốt 2 năm, thông thạo 18 ban võ nghệ, nổi tiếng về cưỡi ngựa múa đao. Từ một nhà Nho trói gà không chặt, ông trở thành một lực sĩ “xách nổi hàng mấy trăm cân”. Gặp khoa bác cử (khoa thi võ để tuyển chọn các chỉ huy quân sự), ông ra Thăng Long thi nhưng không đỗ, đành tạm trở về cố hương làm bạn với non nước cỏ cây. Giỏi quốc âm, có năng khiếu văn chương, thời gian này ông làm mấy thiên Đường luật để ngụ cái bất đắc như ý của mình.
Phận đành yên phận, chửa yên thân
Vàng, bạc còn chen đám tục trần
Trong hãy trả ơn bề cốt nhục
Ngoài càng luống tưởng đạo quân thân
(Vô đề)
Khởi nghiệp võ theo Hoàng Ngũ Phúc đánh Chúa Nguyễn ở Thuận Hoá (Huế), sau khi Hoàng Ngũ Phúc mất, ông dựa vào Hoàng Đình Bảo (Quận Huy). Quận Huy bị giết trong loạn kiêu binh, ông trở về Nghệ An rồi vào Nam theo Nguyễn Huệ. Cuối cùng, ông dựa hẳn vào vua Lê đánh dẹp Trịnh Bồng, được vua phong Đại Tư Đồ giữ việc nước trọng yếu, tước Bằng Quận công, Bằng Trung công. Năm 1787, Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm mang quân ra Bắc giết Nguyễn Hữu Chỉnh bằng cực hình.
Sau khi ông mất, triều Nguyễn suốt 150 năm cầm quyền coi ông là kẻ thù, do vậy hầu hết cứ liệu liên quan đến Nguyễn Hữu Chỉnh đều bị tiêu huỷ nên các thông tin về thân thế, sự nghiệp của ông có nhiều chỗ không thống nhất. Sách Câu đối xứ Nghệ tập I (NXB Nghệ An năm 2005) ghi ông đậu Tam trường thi Hội về võ năm 18 tuổi, nhưng sách Bằng Quận công Nguyễn Hữu Chỉnh của Phan Trần Chúc (NXB Mai Lĩnh in trước 1945, Trung tâm UNESCO Thông tin tư liệu lịch sử và văn hoá Việt Nam tái bản 2001) lại ghi “gặp khoa bác cử (khoa thi võ để tuyển chọn các chỉ huy quân sự), Nguyễn Hữu Chỉnh ra Thăng Long thi nhưng không đỗ”. Chỉ mỗi chi tiết ông đỗ hay không đỗ trong kỳ thi Hội về võ, sau này mỗi sách đã cho kết quả trái ngược rồi. Rồi có người viết do nhầm lẫn đã vô tình “hợp danh” Nguyễn Hữu Chỉnh với Nguyễn Hữu Chính. Tiến sỹ Nguyễn Hữu Chính (1829-1887) gọi Nguyễn Hữu Nghiêm là ông nội, gọi Nguyễn Hữu Chỉnh là ông bác. Bằng Lĩnh Hầu Nguyễn Hữu Chỉnh sống gần trọn nửa sau thế kỷ 18, còn tiến sỹ Nguyễn Hữu Chính sống giữa thế kỷ 19, tham gia Cần Vương và mất trong khởi nghĩa Phan Đình Phùng. Về gia tộc, Nguyễn Hữu Chỉnh là ông bác của tiến sỹ Nguyễn Hữu Chính.
Trong tình hình tư liệu về ông khan hiếm như vậy, cuốn Bằng Quận công Nguyễn Hữu Chỉnh của Phan Trần Chúc giúp ta tiếp cận gần hơn chân dung của một nhân vật lịch sử, một tác giả văn học mà theo chúng tôi chưa được đánh giá đúng mức. Bên cạnh nguồn tư liệu ít ỏi đã qua khúc xạ của người viết, chúng tôi về làng Cổ Đan thu lượm được một số thông tin về ông.
Những gam màu huyền thoại
Theo Phan Trần Chúc, Nguyễn Hữu Chỉnh là người lừng lẫy một thời, thế tất khó tránh được tấm màn thần bí mà người ta vẫn buông xuống xung quanh hầu hết các danh nhân của lịch sử.
* Truyền rằng Nguyễn Mẫn gia tư rất giàu có. Về đời Lê Hiển Tông, có một năm Bắc Hà mất mùa, dân cư bị đói kém đến cùng cực. Trái lại, hai trấn Thanh và Nghệ thì sung túc không biết nhường nào. Triều đình liền hạ lệnh cho hai trấn Đường trong phải chở thóc kho ra cứu tế cho Bắc Hà. Trấn thủ Nghệ An là Nguyễn Như Châu cho đòi nhiều người đến giao việc chuyên chở nhưng không ai chịu đi. Duy có Nguyễn Mẫn khảng khái xin đảm nhiệm việc ấy, công việc hoàn tất, Nguyễn Mẫn được thưởng rất nhiều tiền thành ra giàu có.
Nguyễn Mẫn đã cao tuổi mà chưa có con trai, lại rất tin phong thuỷ. Nghe nói viên Giám sinh họ Đỗ ở miền ấy bắt được thanh nang bí quyết nên rất giỏi về môn địa lý, ông mời kỳ được nhờ tìm cho một huyệt mả. Tìm kiếm ít lâu, Đỗ Giám sinh báo cho Nguyễn Mẫn biết là đã tìm thấy hai huyệt mộ ở huyện Can Lộc:
Côn dược tam thiên, công hầu miên miên
(Cá côn vượt ba nghìn, đời nào cũng có công, hầu)  
Huyệt thứ hai ở núi Bằng:
Bằng đoàn cửu vạn, thiên hạ đại loạn
(Chim bằng bay chín vạn, thiên hạ đại loạn)
Nguyễn Mẫn xin táng ở Bằng Sơn, nên thầy địa lý lại đoán:
Nhất phát bất như tái phát, tái phát bất như tam phát, kinh thiên động địa.
(Phát lần thứ nhất không bằng lần thứ nhì, thứ nhì không bằng thứ ba, long trời lở đất).
Lần theo “tín hiệu xanh” từ mảng màu huyền thoại, chúng tôi xác định Bằng Sơn thuộc huyện Can Lộc xưa, nay thuộc địa phận xã miền biển Thạch Bằng, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, cư dân trong vùng quen gọi Bằng Sơn là núi Bờng. Phải chăng Nguyễn Hữu Chỉnh lấy tên ngọn núi Bằng thuộc dãy Hồng Lĩnh làm tên chữ Bằng Lĩnh Hầu?
Về vị Giám sinh họ Đỗ giúp Nguyễn Mẫn lấy huyệt mộ, giữa tháng 12/2007, chúng tôi tìm vào nhà thờ cụ Tổ chi họ Đỗ Hoàng Văn ở xóm 2 xã Thanh Mai huyện Thanh Chương. Tại phần Phụ lục cuốn gia phả họ Đỗ chép các kỳ tích của tổ tiên có nói rõ về vị Giám sinh này (trích):
“....T­ương truyền, dòng dõi có Giám sinh Đỗ Công Bàn rất giỏi địa lý phong thuỷ, được bố của Nguyễn Hữu Chỉnh (ng­ười làng Cổ Đan xã Đông Hải huyện Chân Phúc) mời chọn lấy huyệt đất. Công Bàn đã điểm cho huyệt đất “phát t­ướng” ở núi Côn Bằng, về sau Nguyễn Hữu Chỉnh thành tướng giỏi lừng lẫy Bắc Hà, đ­ược Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ tiếp đãi hàng th­ượng khách. Chuyện này cũng được Phạm Đình Hổ nói trong sách Tang thương ngẫu lục..”.
Như vậy có thể khẳng định việc Nguyễn Mẫn nhờ Giám sinh Đỗ Công Bàn chọn lấy huyệt mộ là có thật.
Truyền rằng: Khi bà chánh thất Nguyễn Thị Hùng Nhị sinh Nguyễn Hữu Chỉnh, Đỗ Công Bàn sang thăm nghe tiếng khóc, lắc đầu nói:
- Ngày sau loạn thiên hạ tất là thằng bé này. Thật tội ở ta nhiều lắm.
Đầy tuổi nôi, Nguyễn Hữu Chỉnh tự nhiên khóc ròng rã mấy ngày trời. Hết cha mẹ lại đến chú bác, xóm giềng chuyền tay nhau mà bế, nhưng ai dỗ cũng không nín. Chợt có một người con gái xinh đẹp tự xưng là cô Lự đi qua, xin vào dỗ giúp. Nguyễn Mẫn không biết làm thế nào cho con nín, đành liều trao phó con mình cho cô. Cô Lự bồng Chỉnh trong lòng ru:
Rau răm một cụm ba đồng
Anh đi xứ Quảng xứ Đông chưa về
Bao giờ răm mọc rậm rì
Anh ra xứ Bắc gửi yếm đào về cho em   
Cô Lự ru hết bốn câu trên thì Nguyễn Hữu Chỉnh nín bặt. Bốn câu này về sau đúng với sự nghiệp của Nguyễn Hữu Chỉnh. Tục truyền cô Lự là Thần nữ núi Vu Sơn bên Tàu, khi một vị Thám hoa là Nguyễn Lai Thạch sang sứ Yên Kinh có qua núi này, Thần nữ núi Vu Sơn hiện lên trêu ghẹo ông, rồi theo ông về Nam và lấy tên là cô Lự (???)

Việt Sử                 - Page 2 2008091917251511600894_T
Miếu điện Đông Hải được dân tái dựng.

Tấm màn thần bí do người đời buông xuống tuổi thơ Nguyễn Hữu Chỉnh, về sau Phan Trần Chúc là người thu thập chép thành sách, theo chúng tôi đã được hư cấu vụng về. Ngày nay với kiến thức lịch sử của học trò trường huyện, chỉ cần ngược nguồn về giai đoạn nửa sau thế kỷ 16 đến đầu thế kỷ 19 là khắc biết cảnh nồi da nấu thịt giữa 13 đời vua Lê (1600 - 1789) từ đời Lê Kính Tông đến đời Lê Mẫn Đế là 189 năm, 12 đời Chúa Trịnh (1545-1787) từ đời Trịnh Kiểm đến đời Trịnh Bồng là 242 năm, và 10 đời Chúa Nguyễn (1600-1802) từ đời Nguyễn Hoàng đến đời Nguyễn Ánh là 202 năm. Đây là giai đoạn 3 thế lực phong kiến tranh giành quyền bính kéo dài 257 năm, đẩy đất nước ngập chìm trong 17 cuộc nội chiến Trịnh - Nguyễn mà sông Gianh (Quảng Bình) thành giới tuyến. Nguyên nhân dẫn đến “loạn thiên hạ” là do các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền bính, chứ đâu phải chờ đến 196 năm sau cậu bé Nguyễn Hữu Chỉnh chào đời mới “loạn thiên hạ tất là thằng bé này”.


Vài nét của một văn tài
Không chỉ là một nhà quân sự thao lược, Nguyễn Hữu Chỉnh còn là một văn tài xứ Nghệ được giới sỹ phu Bắc Hà đương thời nể phục. Ông để lại một số tác phẩm văn học như Ngôn ẩn thi tập, Văn tế chị, Phú Trương Lưu hầu, Phú Quách Tử Nghi, và nhiều bài thơ câu đối được hậu thế tâm đắc. Nguyễn Hữu Chỉnh thuộc lớp nho sĩ khoác áo quan trường tích cực nhập thế, định hướng vào hoạt động chính trị, hy vọng và tin tưởng vào thiên chức cứu thế của mình. Nhưng ông không thể nhận ra rằng mình chỉ là công cụ của giai cấp phong kiến thống trị đang buổi suy vi, ở đó chế độ sủng thần từng ký sinh trong cung Vua phủ Chúa qua các vương triều, đục nước béo cò tác oai tác quái. Giữa bối cảnh ấy, việc ông nung nấu ý chí hoài bão, muốn khẳng định tài năng cống hiến cho dân cho nước, khác nào tự biến mình thành cái “gai” trong mắt những sủng thần. Mặc dù ông không còn sống để trả lời, song hậu sinh vẫn có quyền nghi vấn về cái thời ông phụng sự.
Vì sao trong khi không ít nhà Nho thực hiện lời dạy của thầy Khổng Tử: ..Nước đang nguy thì không nhập, nước đang loạn thì chớ ở. Thiên hạ có Đạo thì xuất hiện, không có Đạo thì tránh đi. Ở nước có Đạo mà mình nghèo và hèn thật đáng xấu hổ. Ở nước vô Đạo mà mình giàu sang cũng xấu hổ…, và số đông nho  tạm lui về cuộc sống ẩn sĩ, âm thầm gửi chí hướng hoài bão vào thơ ca, vào đất, trời, sông, núi … thì Nguyễn Hữu Chỉnh lại xông ra đối diện với thực tại của xã hội đầy sóng gió bão tố ấy? 
Văn là người, qua một số sáng tác hiện còn, hậu thế ghi nhận ông là vị đại quan mang tâm hồn thi sĩ, việc ông tham gia đánh Đông dẹp Bắc cũng vì :     
Vớt chim dẹp cháy cứu muôn dân
Khi binh nghiệp ở đàng Ngoài chưa hiển đạt, ông buồn bực chứng kiến những chuyện trái ngang trên trời dưới đất mà bất lực, ông đành gửi tâm trạng vào thơ:
Trời đã trộm sinh vào cửa Trịnh
Cũng hay ra đến ở cành Lê
Tóc chen hai thứ chửa danh chi
Thân hỡi là thân thì hỡi thì…
Là đại quan khí khái, không những đưa sức mạnh to lớn ấy vào thơ, ông còn khuyên răn những kẻ ngồi mát ăn bát vàng không thấy được sức mạnh to lớn của nhân dân:
Can cân giữ mệnh dân làm trước
Lấy dân là báu nước chớ khinh  
(Thơ tự đề)
Là nho sỹ sống ở thời kỳ mà xã hội phong kiến đang trên đà rạn vỡ, ông khó mà vượt khỏi ý thức hệ Nho giáo để nhận biết rằng, những trí thức Nho học nếu được bộ máy quyền lực đương thời sử dụng, thì trước hết là để nêu gương về đạo đức, tạo ra lớp người - công cụ phục vụ cho giai cấp phong kiến thống trị các vương triều mà thôi. Giai cấp phong kiến thống trị không hoàn toàn sử dụng tài năng của những nho sĩ như ông vào đúng mục đích xây dựng nước mạnh, dân giàu.
Nhưng ở thời đó, dù ông có thông minh hơn người cũng không nhận ra hạn chế của lịch sử, đó là: Tầng lớp nho sĩ đương thời đã trót nương vào các thế lực phong kiến để mong thi thố hoài bão tài năng, xác lập vị thế cống hiến cho đời. Oái oăm thay, ông thừa biết bi kịch triều Lê đã trút xuống gia tộc Nguyễn Trãi với vụ án Lệ Chi Viên ròng ròng máu chảy, vậy mà ông lại để bi kịch đến với mình ở tuổi 46 khi tài năng đang nở rộ. Phải chăng ông sống hết mình vì khát vọng lớn lao, ông cũng sẵn sàng chấp nhận xả thân vì khát vọng lớn lao ấy? Là nhà quân sự thao lược kiêm văn tài của xứ Nghệ, cuộc đời sớm gánh chịu bi kịch, ông để lại cho đời một số tác phẩm văn học được hậu thế tâm đắc.
Văn là người, qua một số tác phẩm còn sót lại người đời có cơ sở để hiểu đúng hiểu đủ về ông hơn. Cư dân làng Cổ Đan truyền nhiều chuyện về ông: hào hoa phóng khoáng, giao du rộng rãi, vừa có tài hùng biện của một chính khách vừa có chất phong lưu hào sảng của một văn nhân. Trong tư dinh tại làng Cổ Đan, ông nuôi vài chục người hầu tuổi mười tám đôi mươi, vừa giỏi tề gia nội trợ vừa giỏi đàn hát để góp vui cùng những văn tài hiền sĩ trong vùng là bạn thân của ông. Khi nhà có đại tiệc, ông cho người đến làng ca trù Cổ Đạm bên Nghi Xuân mời tốp đào kép đào nương về nhà, biểu diễn thâu đêm các sáng tác mới của ông và của văn tài bạn hữu. Sở thích đam mê văn chương, lối sống phóng khoáng của ông được lưu tại đôi câu đối hiện treo trong nhà thờ chi nhánh Nguyễn Hữu do ông Nguyễn Hữu Vinh làm tộc trưởng:                       
Văn chương thiên cổ báu
Hiếu hữu nhất tâm sinh.
Tạm dịch: Văn chương muôn đời quý. Sống hiếu hữu làm đầu.
Sống trong cảnh trộm sinh vào cửa Trịnh ra đến ở cành Lê, vào luồn ra cúi nơi ngai Vua phủ Chúa đàng Ngoài, dù than thân trách phận nhưng thơ ông vẫn toát lên thần thái của một nho sĩ tài năng, không cam chịu cát lầm với đám quan lại sủng thần.
Câu thơ của ông viết từ thời ấy mà như mới viết ở thời nay: 
Cá nọ mèo tha đầy kẻ đuổi
Lợn kia hùm bắt mấy ai ngăn
(Vô đề)
Cư dân Phúc Thọ tự hào về ông - một văn tài võ tướng lừng lẫy Bắc Hà. Ông là người tác thành để Quang Trung lấy được công chúa Ngọc Hân, nhờ đó văn học nư­ớc nhà có một Ai t­ư vãn để đời. Là đệ tử của Nho giáo, lại sống ở giai đoạn lịch sử đầy biến cố và bất trắc, khi lui về Nghệ An chờ thời ông đã theo lời dạy của thầy Mạnh Tử mà đối nhân xử thế: Cùng, tắc độc thiện kỳ thân; Đạt, tắc kiêm thiện thiên hạ. (Lúc khốn khó giữ gìn lấy chữ thiện cho riêng mình; lúc thành đạt thì làm điều thiện cho cả thiên hạ). Khi ở đỉnh cao hiển đạt ông vẫn “quyền bất thất kinh” (quyền biến mà không làm mất đạo lý kinh nghĩa), điều này được cụ thể qua việc ông huy động hơn 1 vạn dân binh xây mới toà điện Đông Hải ngay tại làng Cổ Đan.
Cố Tr­­ưng (1890-1968) người làng Cổ Đan kể rằng: Cuối thế kỷ 13 đầu thế kỷ 14, ngư dân 2 làng Cổ Đan, Lộc Thọ tôn hai vị anh hùng dân tộc Yết Kiêu và Sát Hải Đại Vương Hoàng Tá Thốn làm Thuỷ tổ nghề sông nước, họ dựng cái am nhỏ bên bờ sông Lam thờ hai vị nhân thần. Chiếc am nhỏ tồn tại trên dưới 400 năm, đến giữa thế kỷ 18 lúc đắc thế, Hữu quan đô đốc Nguyễn Hữu Chỉnh có trong tay vạn binh, trong thời gian về chuẩn bị cứ địa tại Nghệ An đã huy động xây mới toà Điện Đông Hải ngay trên vị trí cái am cũ. Toà Điện Đông Hải được người đương thời xếp vào hàng “đệ nhất” của hệ thống công trình kiến trúc văn hoá - lịch sử - tâm linh của xứ Nghệ. Hai vị nhân thần mà Nguyễn Hữu Chỉnh lập đền thờ đều là "Thượng đẳng tối linh tôn thần, thập nhất thôn phụng tự " (tức 11 thôn của xã Đông Hải cũ gồm Lộc Thọ, Cổ Đan, Cổ Bái, Phúc Lợi, Lộc Châu, Lộc Hải, Xuân D­­ương, Mỹ Lộc, Nam Sơn, Hải Yến, Chính Vị đều cúng ở đền này). Ngày nay chỉ còn lại 4 /11 thôn gồm Cổ Đan, Cổ Bái, Lộc Thọ, Phúc Lợi thuộc xã Phúc Thọ, 7 thôn còn lại thuộc về các xã Nghi Xuân, Nghi Thái, Nghi Phong.
Lúc thành đạt ông làm chữ thiện “cho cả thiên hạ” bằng việc xây mới Toà điện thờ hai vị nhân thần có công lớn thời Trần, đó là sự cụ thể hoá cái tâm lớn của một nhà thơ hào phóng, cái tầm lớn của một nhà quân sự tài năng. Tiếc thay đến giữa thế kỷ 20, toà Điện Đông Hải và ngôi nhà thờ ông do hậu duệ lập đã bị vùi lấp.
Mới rồi tôi về làng Cổ Đan, nghe tin Cảng K34 Hải quân đồng ý cho mấy hộ dân xóm 6 gốc làng Cổ Đan xưa tái lập am thờ hai vị nhân thần của dân tộc tại vị trí Điện Đông Hải xưa. Ông Trần Vân Nam và tôi đ­ược cảnh vệ quân Quân Cảng đồng ý cho vào xem. Chúng tôi lặng nhìn cái am thờ tí tẹo nằm sát gốc cây sung, tại vị trí cổng chính của Toà Điện Đông Hải ngày xưa, cách chân cầu Cảng vài ba chục mét. Thì ra, trót đánh mất bạc nén vàng ròng sẽ có ngày tìm lại đ­ược vàng ròng bạc nén, đã đánh mất công trình kiến trúc văn hoá thì không dễ tìm lại nữa.
Cũng vậy, cuộc đời trót phôi pha mờ nhạt chân dung võ tướng văn tài Nguyễn Hữu Chỉnh. Đã 221 năm kể từ khi ông mang ý chí hoài bão về cõi vĩnh hằng, thời gian ấy đủ để hậu thế bình tĩnh, khách quan, bóc tách những hạn chế lịch sử có ở mỗi thời mỗi cuộc, để nhìn nhận lại chân dung một con người mà khi sống đã phải đứng dưới chân cột đèn không được sáng.

Tác giả bài viết: Giao Hưởng
phannguyenquoctu
phannguyenquoctu

Tổng số bài gửi : 7587
Join date : 25/10/2010
Age : 56
Đến từ : Sài Gòn

Về Đầu Trang Go down

Việt Sử                 - Page 2 Empty Re: Việt Sử

Bài gửi  phannguyenquoctu Wed May 31, 2017 3:30 am

phannguyenquoctu
phannguyenquoctu

Tổng số bài gửi : 7587
Join date : 25/10/2010
Age : 56
Đến từ : Sài Gòn

Về Đầu Trang Go down

Việt Sử                 - Page 2 Empty Re: Việt Sử

Bài gửi  phannguyenquoctu Wed May 31, 2017 3:37 am

phannguyenquoctu
phannguyenquoctu

Tổng số bài gửi : 7587
Join date : 25/10/2010
Age : 56
Đến từ : Sài Gòn

Về Đầu Trang Go down

Việt Sử                 - Page 2 Empty Re: Việt Sử

Bài gửi  phannguyenquoctu Wed May 31, 2017 3:43 am

phannguyenquoctu
phannguyenquoctu

Tổng số bài gửi : 7587
Join date : 25/10/2010
Age : 56
Đến từ : Sài Gòn

Về Đầu Trang Go down

Việt Sử                 - Page 2 Empty Re: Việt Sử

Bài gửi  phannguyenquoctu Wed May 31, 2017 4:05 am

phannguyenquoctu
phannguyenquoctu

Tổng số bài gửi : 7587
Join date : 25/10/2010
Age : 56
Đến từ : Sài Gòn

Về Đầu Trang Go down

Việt Sử                 - Page 2 Empty Re: Việt Sử

Bài gửi  phannguyenquoctu Wed May 31, 2017 4:15 am

phannguyenquoctu
phannguyenquoctu

Tổng số bài gửi : 7587
Join date : 25/10/2010
Age : 56
Đến từ : Sài Gòn

Về Đầu Trang Go down

Việt Sử                 - Page 2 Empty Re: Việt Sử

Bài gửi  phannguyenquoctu Wed May 31, 2017 4:20 am

phannguyenquoctu
phannguyenquoctu

Tổng số bài gửi : 7587
Join date : 25/10/2010
Age : 56
Đến từ : Sài Gòn

Về Đầu Trang Go down

Việt Sử                 - Page 2 Empty Re: Việt Sử

Bài gửi  phannguyenquoctu Wed May 31, 2017 4:23 am

phannguyenquoctu
phannguyenquoctu

Tổng số bài gửi : 7587
Join date : 25/10/2010
Age : 56
Đến từ : Sài Gòn

Về Đầu Trang Go down

Việt Sử                 - Page 2 Empty Re: Việt Sử

Bài gửi  phannguyenquoctu Wed May 31, 2017 4:30 am

phannguyenquoctu
phannguyenquoctu

Tổng số bài gửi : 7587
Join date : 25/10/2010
Age : 56
Đến từ : Sài Gòn

Về Đầu Trang Go down

Việt Sử                 - Page 2 Empty Re: Việt Sử

Bài gửi  phannguyenquoctu Wed May 31, 2017 4:36 am

phannguyenquoctu
phannguyenquoctu

Tổng số bài gửi : 7587
Join date : 25/10/2010
Age : 56
Đến từ : Sài Gòn

Về Đầu Trang Go down

Việt Sử                 - Page 2 Empty Re: Việt Sử

Bài gửi  phannguyenquoctu Wed May 31, 2017 4:43 am

Chuyện ít biết về nữ hoàng duy nhất ở Việt Nam

Với 7 chức vị trong đời, Lý Chiêu Hoàng có số phận lạ lùng nhất trong lịch sử Việt Nam và vai trò của bà với vận mệnh quốc gia khá mờ nhạt.

Là nữ hoàng đầu tiên và cũng là duy nhất trong lịch sử vương triều phong kiến Việt Nam, song Lý Chiêu Hoàng (Chiêu Thánh) ở ngôi báu chỉ hơn một năm nên sách sử khi viết về bà chỉ đề cập đến với những dòng sơ lược khiến hậu thế ít biết về cuộc đời lắm nỗi truân chuyên của bà.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Lý Chiêu Hoàng sinh năm Mậu Dần (1218), là con gái vua Lý Huệ Tông và hoàng hậu Trần Thị Dung. Khi bà chào đời, nhà Lý (1010-1225) đã vào thời kỳ suy tàn. Ông nội của bà, tức Lý Cao Tông được biết đến là ông vua "chơi bời vô độ, chính sự hình pháp không rõ ràng, giặc cướp nổi lên như ong, đói kém liền năm" nên cơ nghiệp nhà Lý từ đấy suy.
Tới đời Lý Huệ Tông đất nước càng bi đát hơn. Sử viết: “Bấy giờ thừa hưởng thái bình đã lâu ngày, giường mối dần bỏ, dân không biết việc binh, giặc cướp nổi lên không ngăn cấm được. Vua mới lên ngôi, đem việc nước giao cho Thái uý Đàm Dĩ Mông. Dĩ Mông là người không có học thức, không có mưu thuật, lại nhu nhược không quyết đoán, chính sự ngày một đổ nát".
Việt Sử                 - Page 2 Chieu-hoang-1500-1452868591
Tượng thờ vua bà Lý Chiêu Hoàng đầu đội miện Kim Khôi, mình khoác áo long bào ở đền Rồng. Ảnh tư liệu
Huệ Tông vào cuối đời thường hay rượu chè, lâm bệnh gần như điên loạn, không thể cáng đáng nổi việc triều chính. Tháng 10 năm Giáp Thân (1224) Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ (anh họ Trần Thị Dung) - người nắm quyền lực lớn nhất trong triều đình thời bấy giờ - đã buộc vua xuống chiếu lập Chiêu Thánh làm Hoàng Thái tử, nhường ngôi cho cô công chúa mới 6 tuổi, niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo. Từ đây sóng gió đã phủ lên cuộc đời vị nữ hoàng nhỏ tuổi này.
Năm 1225, Trần Thủ Độ dàn xếp cho cháu của mình là Trần Cảnh (vua Trần Thái Tông sau này) vào cung hầu hạ Chiêu Hoàng. Trần Cảnh được Chiêu Hoàng gần gũi, yêu mến, hay trêu đùa. Trần Thủ Độ lấy dịp đó dựng nên cuộc hôn nhân giữa Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh rồi chuyển giao triều chính bằng cách để Lý Chiêu Hoàng nhường (thực chất là ép) ngôi cho chồng.
Tháng 11 năm Ất Dậu (1225), Lý Chiêu Hoàng xuống chiếu nhường ngôi cho Trần Cảnh. Một tháng sau, triều đình mở hội lớn ở điện Thiên An, Chiêu Hoàng ngự trên sập báu, các quan mặc triều phục vào chầu, lạy ở dưới sân. Chiêu Hoàng trút bỏ áo ngự mời Trần Cảnh lên ngôi hoàng đế và trở thành vị vua đầu tiên của nhà Trần.
Chiêu Hoàng lúc đó mới 7 tuổi, được sắc phong làm hoàng hậu, gọi là Chiêu Thánh. Bảy năm sau (1232), khi 14 tuổi bà sinh con trai nhưng không may thái tử mất ngay sau đó.
Hoàng hậu đau ốm liên miên suốt 5 năm. Lúc này Trần Thủ Độ và mẹ ruột của bà là Trần Thị Dung (đã lấy Trần Thủ Độ và được gọi là công chúa Thiên Cực), lại bàn mưu phải giữ được ngai báu cho dòng họ nhà Trần nên đã ép Trần Cảnh lấy Thuận Thiên công chúa (lúc này đang là vợ của Trần Liễu, anh trai của nhà vua) và giáng Chiêu Thánh xuống làm công chúa.
Việt Sử                 - Page 2 Den-rong-7812-1452868592
Đền Rồng thờ vua bà Lý Chiêu Hoàng ở Bắc Ninh. Ảnh: Wikimapia
Quá buồn và chán nản, Chiêu Thánh xuất gia đi tu. Sau 21 năm sống cuộc đời cô độc và buồn thảm, một biến cố lớn đến trong cuộc đời nhưng cũng là niềm an ủi, hạnh phúc những năm tháng cuối đời bà.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược lần thứ nhất (1257- 1258) tướng Lê Tần lập được nhiều chiến công, đặc biệt là công cứu Trần Thái Tông trong một trận đánh khốc liệt nên được vua đổi tên là Lê Phụ Trần. Sau khi đánh đuổi quân Nguyên Mông ra khỏi bờ cõi, Trần Thái Tông không chỉ phong tước cho Lê Tần mà còn gả vợ cũ của mình cho ông.
20 năm sống với Lê Phụ Trần, Chiêu Thánh sinh được 2 người con. Con trai là Thượng vị hầu Tông (có nghiên cứu cho rằng người này là danh tướng Trần Bình Trọng nổi tiếng với câu nói: Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc. Ta đã bị bắt thì có một chết mà thôi, can gì mà phải hỏi lôi thôi). Còn con gái của bà là Ứng Thụy công chúa Khuê. Theo chính sử, trong lần về thăm quê hương Cổ Pháp (nay thuộc Từ Sơn, Bắc Ninh), bà đã qua đời ở tuổi 60 và được thờ ở đền Rồng.
Tuy là vua chính thức của vương triều nhà Lý - vương triều rực rỡ của nước Đại Việt, đặt nền móng cho sự thịnh trị của các triều đại sau này - nhưng Lý Chiêu Hoàng không được sử sách công nhận một cách công bằng. Nhà Lý có 9 vị vua nhưng chỉ có 8 vị trước bà (từ Lý Thái Tổ tới Lý Huệ Tông) được thờ tại Đền Đô, riêng bà lại thờ tại khu vực khác, gọi là Đền Rồng.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng vì Lý Chiêu Hoàng đã để mất ngôi nhà Lý nên bị coi là mang tội với dòng họ, không được thừa nhận và phải thờ riêng. Còn theo Giáo sư Sử học Vũ Văn Ninh, có thể vì bà làm vua trong 2 năm nhưng do còn nhỏ nên không có công lao gì với đất nước. Hơn nữa, về sau bà đã nhường ngôi vua, rồi lại bị phế ngôi hoàng hậu, trở thành công chúa và cuối cùng "xuất giá tòng phu" không còn là người trong cung thất nhà Lý.
Từ khi sinh ra cho đến khi từ biệt cõi đời, với bao biến cố đã khiến bà trở thành một người có số phận lạ lùng nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam với 7 lần ở những danh vị khác nhau: Công chúa triều Lý, Hoàng Thái tử nhà Lý, Nữ Hoàng đế nhà Lý, Hoàng hậu nhà Trần, Công chúa nhà Trần, Sư cô (thời Trần) và Phu nhân tướng quân nhà Trần.
Trung Sơn
phannguyenquoctu
phannguyenquoctu

Tổng số bài gửi : 7587
Join date : 25/10/2010
Age : 56
Đến từ : Sài Gòn

Về Đầu Trang Go down

Việt Sử                 - Page 2 Empty Re: Việt Sử

Bài gửi  phannguyenquoctu Wed May 31, 2017 2:37 pm

phannguyenquoctu
phannguyenquoctu

Tổng số bài gửi : 7587
Join date : 25/10/2010
Age : 56
Đến từ : Sài Gòn

Về Đầu Trang Go down

Việt Sử                 - Page 2 Empty Re: Việt Sử

Bài gửi  phannguyenquoctu Wed May 31, 2017 3:04 pm

phannguyenquoctu
phannguyenquoctu

Tổng số bài gửi : 7587
Join date : 25/10/2010
Age : 56
Đến từ : Sài Gòn

Về Đầu Trang Go down

Việt Sử                 - Page 2 Empty Re: Việt Sử

Bài gửi  phannguyenquoctu Wed May 31, 2017 3:14 pm

Vua Lê Thánh Tông -
đấng minh quân văn trị,
vũ công toàn năng của Đại Việt
(1442-1497)


Vua Lê Thánh Tông tên thật là Lê Tư Thành,(còn có tên khác là Lê Hậu) hiệu Thiên Nam động chủ, con thứ tư của vua Lê Thái Tông, mẹ là bà Ngô Thị Ngọc Dao. Ông sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất (1442) tại nhà ông ngoại ở khu đất chùa Huy Văn , Khâm Thiên, Hà Nội ngày nay.

Việt Sử                 - Page 2 1
Chùa Huy Văn, Khâm Thiên, nơi vua Lê Thánh Tông cất tiếng khóc chào đời.
Tên tuổi và sự nghiệp của vua Lê Thánh Tông gắn chặt với một giai đoạn phát triển cường thịnh của đất nước. Sách “Các triều đại Việt Nam” của tác giả Quỳnh Cư- Đỗ Đức Hùng đánh giá về ông:“là ông vua ở ngôi  gần như lâu nhất trong lịch sử Việt Nam (38 năm). Nhưng điều đáng nhớ không phải vì ông ở ngôi lâu mà vì những đóng góp của triều vua này vào đời sống mọi mặt của quốc gia Đại Việt cường thịnh thời đó”. Thời trẻ, Lê Thánh Tông với thiên tư thông minh và rất chăm chỉ học hành thể hiện con người có chí khí lớn. Việc lên ngôi vua của Lê Thánh Tông được sử sách ghi chép lại rất rõ. Khi Lê Nghi Dân- ông vua cướp ngôi bị lật đổ, các vị quan đại thần trong triều, đứng đầu là Nguyễn Xí, đều nhận định rằng Lê Tư Thành, thiên tư sáng suốt, hùng tài đại lược thật xứng đáng làm vua. Họ đã đem xe kiệu đến đón vua ở cung riêng (gọi là cung Gia Đế). Lê Thánh Tông lên làm vua năm 1460, hai lần đổi niên hiệu: Quang Thuận (1460-1469) và Hồng Đức (1470-1497). Trong gần 40 năm làm vua, ông đã đưa triều Lê phát triển tới đỉnh cao về mọi mặt: chính trị, xã hội, kinh tế, an ninh quốc phòng, văn hóa….
Việt Sử                 - Page 2 2

Bức  phù điêu vua Lê Thánh Tông được trưng bày trang trọng  tại Bảo tàng Đà Nẵng.
Nhờ sự ủng hộ sáng suốt, quyết liệt của nhóm đại thần Nguyễn Xí, Đinh Liệt..., Lê Thánh Tông đã bước lên ngai vàng giữa lúc triều chính nhà Lê đang lục đục mâu thuẫn. Lên nắm chính quyền, Lê Thánh Tông quan tâm nhất việc nội trị, an dân. Vua đã nhanh chóng chấm dứt tình trạng phe phái trong cung đình, khẩn trương tổ chức xây dựng đất nước với một tinh thần cải cách mạnh mẽ, táo bạo. Về cơ cấu chính quyền các cấp, ông đã tiến hành xóa bỏ hệ thống tổ chức hành chính cũ thời Lê Lợi từ 5 đạo đổi thành 13 đạo (tức 13 thừa tuyên), đặt các quan văn, quan võ phụ trách các ngành; củng cố lại các bộ, các viện, các ty nghiêm túc. Bên cạnh cải tổ cơ chế Nhà nước, Lê Thánh Tông đặc biệt chú ý các biện pháp phát triển kinh tế, sửa đổi chế độ thuế khóa, điền địa, khuyến khích nông nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi, mở đồn điền, khai khẩn đất hoang, cho đào kênh, khơi ngòi, mở mang đường sá, chợ búa làm cho muôn dân được phát triển an lành.. Những nỗ lực nhằm xây dựng phát triển đất nước của Lê Thánh Tông đã được phản ánh khá rõ qua các bài chiếu, chỉ dụ do ông ban như: Chiếu khuyến nông, Chiếu lập đồn điền, Chiếu định quan chế... Vua Lê Thánh Tông đặc biệt chú ý về an ninh quốc phòng, bảo vệ bờ cõi giang sơn; lực lượng quốc phòng bảo vệ đất nước được tăng cường hùng hậu. Trước kia, quân đội chia làm 5 đạo vệ quân, nay đổi làm 5 phủ đô đốc. Mỗi phủ  lại có vệ, sở. Bên cạnh còn có 2 đạo nội, ngoại, gồm nhiều ti, vệ. Ngoài tổ chức quân thường trực, Lê Thánh Tông còn chú ý lực lượng quân dự bị ở các địa phương. 43 điều quân chính Lê Thánh Tông ban hành cho thấy kỷ luật quân đội của ông rất nghiêm ngặt. Ông là người chăm lo mở mang bờ cõi Đại Việt bằng cách chinh phục Chiêm Thành (năm 1471).
Việt Sử                 - Page 2 3

Tượng vua Lê Thánh Tông ở Khu văn hóa núi Bài thơ - Quảng Ninh.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư còn ghi chép lại việc Lê Thánh Tông là người quan tâm sâu sắc với  việc bảo vệ giang sơn xã tắc, gìn giữ chủ quyền quốc gia. Trước những mối đe dọa bởi nguy cơ xâm lược từ phương Bắc, không chỉ cảnh giác đề phòng mà một số lần Lê Thánh Tông chủ động cho quân Bắc phạt không phải để chiếm đất, giành dân mà để răn đe, làm nhụt tham vọng của giặc và đề cao sức mạnh của mình, như sự kiện năm Mậu Ngọ (1438) quân ta đánh hai châu An Bình và Tư Lăng (nay thuộc Quảng Tây, Trung Quốc), hay như tháng 6 năm Canh Tý (1480) quân ta tấn công Cảm Quả, chiếm ải Thông Quang (thuộc Quang Lang, Ôn Châu, Trung Quốc) rồi tiến vào xứ Ban Động dựng rào chắn, sau đó tâu về triều đình, buộc nhà Minh phải sai sứ sang thương nghị. Trong những lần như vậy, vua Lê Thánh Tông đều cho người đi “biện bạch phải trái với nhà Minh”. Bên cạnh đó, Lê Thánh Tông luôn kiên quyết ngăn chặn những hành động xâm phạm biên giới của quân Minh, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ. Trong việc tranh luận, đàm phán về vấn đề biên giới ông chủ trương mềm dẻo nhưng quyết không nhân nhượng, tháng 4 năm Quý Tỵ (1473) vua nói với các quan phụ trách việc biên cương, đứng đầu là Thái bảo Kiến Dương bá Lê Cảnh Huy rằng: “Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại tự tiện vứt bỏ đi được, ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc bày tỏ rõ điều ngay lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước một tấc đất của Thái tổ làm mồi cho giặc thì tội phải tru di” ( Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư). Chính dưới thời Lê Thánh Tông, bản đồ đầu tiên của quốc gia Ðạị Việt đã được hoàn thành.
Việt Sử                 - Page 2 4

Nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu chăm chú xem chỉ dụ nổi tiếng của vua Lê Thánh Tông về giữ gìn chủ quyền đất nước tại Bảo tàng Đà Nẵng tháng 2-2014.
Bộ máy nhà nước trung ương tập quyền dưới triều Lê Thánh Tông đã đến mức hoàn bị, từ trung ương xuống đến xã. Thế lực của đại quý tộc bị hạn chế, thay vào đó là sự tham chính của tầng lớp sĩ phu nho giáo được tuyển lựa bằng con đường thi cử. Bộ luật Hồng Đức là một trong những thành tựu đáng tự hào nhất của sự nghiệp Lê Thánh Tông và của cả thời đại ông. Sự ra đời của bộ luật Hồng Đức được xem là sự kiện đánh dấu trình độ văn minh cao của xã hội Việt Nam TK XV. Lê Thánh Tông, người khởi xướng luật Hồng Đức, cũng là người thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật đã ban hành. Ông đã thu lại quyền chỉ huy của tổng quân đô đốc Lê Thiệt vì con Lê Thiệt giữa ban ngày phóng ngựa trên đường phố và dung túng gia nô đánh người. Lê Thánh Tông thường bảo với các quan rằng: "Pháp luật là phép tắc chung của Nhà nước, ta và các người phải cùng tuân theo". Về phương diện văn hóa Lê Thánh Tông đã có công tạo lập cho thời đại một nền văn hóa với một diện mạo riêng, khẳng định một giai đoạn phát triển mới của lịch sử văn hóa dân tộc. Cùng với việc xây dựng thiết chế mới, Lê Thánh Tông đẩy mạnh phát triển giáo dục, đào tạo nhân tài. Ở Việt Nam thời phong kiến, chưa bao giờ nền giáo dục, thi cử lại thịnh đạt cũng như vai trò của trí thức lại được đề cao như đời Lê Thánh Tông. Ngoài Hàn lâm viện, Quốc sử viện, Nhà Thái học, Quốc Tử Giám là những cơ quan văn hóa, giáo dục lớn; ông còn xây kho chứa sách. Trong 38 năm làm vua, đất nước đã có 501 người đỗ trạng nguyên, tiến sĩ... Ông khởi xướng lập bia Tiến sĩ và tiến hành cho dựng bia để ghi danh, tôn vinh những người tài và đức của dân tộc Đại Việt ở Văn Miếu-Quốc Tử Giám để các thế hệ, các triều đình sau này tiếp tục bổ sung các tấm bia vinh danh mới. Các tác phẩm: Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Hồng Đức quốc âm thi tập, Hồng Đức thiên hạ bản đồ, Thiên Nam dư hạ... là những giá trị văn hóa tiêu biểu của triều đại Lê Thánh Tông. Nói tới công lao của ông đối với nền văn hóa dân tộc, không thể không kể đến một việc có ý nghĩa lịch sử mà ông đã làm. Đó là việc ông hủy án minh oan cho Nguyễn Trãi, cho sưu tầm lại thơ văn Nguyễn Trãi đã bị tiêu hủy sau vụ án "Lệ Chi viên"; truy phong cho Nguyễn Trãi chức Đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu và bổ dụng người con trai còn sót lại của Nguyễn Trãi là Nguyễn Anh Vũ làm Đồng Tri Châu và cấp cho 100 mẫu ruộng làm nơi thờ cũng. Lê Thánh Tông đã cho tạc bia về Nguyễn Trãi: "Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo"(Tấm lòng Ức Trai sáng tựa sao Khuê). Lê Thánh Tông còn là một nhà thơ lớn. Không chỉ làm thơ, mà vua còn sáng lập ra Hội Tao đàn Nhị thập bát tú gồm 28 học giả giỏi nhất Đại Việt thời bấy giờ. Đứng đầu hội văn học Tao Đàn, thơ Lê Thánh Tông có giá trị cao về nội dung tư tưởng. Qua thơ ông, chúng ta thấy được một nhân cách lớn, một tâm hồn gắn bó mật thiết với non sông, đất nước, với nhân dân, với những truyền thống anh hùng của dân tộc, của Tổ tông. Đọc thơ ông còn thấy được khí phách cả một thời  dân tộc đang vươn lên, đầy hào tráng. Các tác phẩm ông để lại rất phong phú, gồm 9 tập thơ chữ Hán, hàng trăm bài thơ chữ Nôm và văn xuôi hiện còn được chép trong các tập: Thiên Nam dư hạ (trong đó có bài phú nổi tiếng Lam Sơn Lương Thủy phú), Châu Cơ thắng thưởng Chinh Tây kỷ hành, Minh lương cẩm tú, Văn minh cổ xúy, Quỳnh uyển cửu ca, Cổ tâm bách vịnh, Thập giới cô hồn quốc ngữ văn...
Việt Sử                 - Page 2 5

Bìa một cuốn sách viết về vua Lê Thánh Tông.
Thay lời kết :
Cuộc đời và sự nghiệp của vua Lê Thánh Tông có rất nhiều điều vĩ đại ông đã làm được ở thời đại của ông mà bài viết nhỏ này chưa thể dung nạp hết. Lên làm vua lúc 19 tuổi, chỉ một năm sau, khi trách lỗi cựu thần Ngô Sĩ Liên, Nghiêm Nhân Thọ, vị hoàng đế 20 tuổi bảo họ: "Ta mới coi chính sự, sửa mới đức tính, ngươi bảo nước ta là hàng phiên bang của Trung Quốc thời xưa, thế là ngươi theo đường chết, mang lòng không vua". Câu nói đó đã thể hiện một ý chí tự cường dân tộc của một minh quân, là động lực mãnh liệt đưa vua Lê Thánh Tông đạt tới vinh quang trong sự nghiệp xây dựng, phát triển, bảo vệ chủ quyền đất nước ở TK XV. Viết về ông, sau này Sử gia Ngô Sĩ Liên hết mực khen Lê Thánh Tông là "vua sáng lập chế độ, mở mang đất đai, bờ cõi khá rộng, văn vật tốt đẹp, thật là vua anh hùng, tài lược". Ông là người đóng vai trò quan trọng đưa đất nước đi vào ổn định, kỷ cương bằng việc kết hợp hài hòa lễ trị và pháp trị. Ông có tầm nhìn chiến lược khi một mặt giữ vững cương thổ phía Bắc, mặt khác mở mang lãnh thổ xuống phía Nam, nâng cao vị thế Đại Việt. Có thể nói, ông là một trong những nhà vua dưới các triều đại phong kiến nước Việt xưa có tình yêu và ý thức về chủ quyền biên giới, cũng như biển đảo rất lớn, rất sâu sắc, rất đáng trân trọng, tự hào. Hơn thế nữa, vua Lê Thánh Tông còn là một nhà văn hóa, nhà thơ lớn.  Ông  mất ngày 30 tháng giêng năm Đinh Tỵ (1497). Mọi thế hệ người Việt Nam vẫn luôn luôn ngưỡng mộ, tỏ lòng thành kính, biết ơn công lao của các vị tiền bối đã giữ yên xã tắc sơn hà cho dân tộc; trong đó vua Lê Thánh Tông- một đấng vua minh quân toàn tài mưu lược và đầy khí phách ở thế kỷ XV.
Minh Vượng
phannguyenquoctu
phannguyenquoctu

Tổng số bài gửi : 7587
Join date : 25/10/2010
Age : 56
Đến từ : Sài Gòn

Về Đầu Trang Go down

Việt Sử                 - Page 2 Empty Re: Việt Sử

Bài gửi  phannguyenquoctu Wed May 31, 2017 3:29 pm

Vua Lê Thánh Tông gặp siêu trộm và bài học về sự liêm chính


 Lê Thánh Tông là bậc minh quân trong lịch sử Việt Nam. Câu chuyện vua gặp đạo chích trong một lần cải trang vi hành mang đến bài học sâu sắc về sự thanh liêm, trung thực.


Lê Thánh Tông (1442 - 1497) là vị vua thứ năm của nhà Lê sơ, trị vì đất nước từ năm 1460 đến 1497. Trong suốt những năm ông tại vị, đất nước đạt độ cực thịnh, rực rỡ về mọi mặt từ kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, quân sự. Thời kỳ này được gọi là thịnh trị Hồng Đức.
Ông là vị vua sáng suốt, vừa là nhà văn hóa lớn, luôn chú trọng xây dựng nền giáo dục nước nhà. Có thể nói, dưới thời Lê Thánh Tông, nền giáo dục đạt được những thành tựu huy hoàng mà không thời kỳ phong kiến nào của Việt Nam sánh kịp.
Khi làm vua, Lê Thánh Tông rất hay cải trang, mặc quần áo thường dân và vi hành khắp chốn để hiểu thêm về cuộc sống thực sự của dân chúng, về đạo đức và tài năng của quan lại dưới quyền, những điều mà ông không bao giờ được nghe quần thần của mình bẩm báo.




Việt Sử                 - Page 2 Zing_lethanhtong
Tranh vẽ vua Lê Thánh Tông. Ảnh: Wikipedia
Thuở ấy, tại kinh thành Thăng Long có người múa gậy rất giỏi, lại có tài thoắt ẩn thoắt hiện, đi tới đi lui nhanh như gió nên được người dân gọi là Quận Gió. Quận Gió là đạo chích chuyên nghiệp, xuất quỷ nhập thần, chuyên trèo tường đào gạch vào nhà người khác ăn trộm.
Ở những nơi không ai ngờ, người này ngang nhiên xuất hiện. Ở những chốn canh phòng cẩn mật, anh ta vẫn luồn qua được. Nếu Quận Gió định trộm của ai thì nhà đó dù đã phòng bị, vẫn không thoát.
Tuy nhiên, Quận Gió lại được nhiều người yêu mến bởi không bao giờ ăn trộm nhà nghèo mà thường lấy của nhà giàu, chia cho người nghèo và những người lương thiện khác.
Nghe tin đồn về Quận Gió, vua Lê Thánh Tông bèn cải trang tìm hiểu sự tình.
Đêm 30 Tết, nhà vua đến gặp Quận Gió, tự xưng là học trò nghèo ở trường Giám (Quốc Tử Giám – trường đại học đầu tiên của nước ta). Lê Thánh Tông giả vờ kể sự nghèo khổ, không có tiền để về quê cúng giỗ tổ tiên nên muốn nhờ Quận Gió giúp một ít làm lộ phí.
Nghe xưng danh là Giám sinh, Quận Gió hồ hởi nói: “Giúp ai tôi cũng sẵn lòng. Giúp học trò nghèo thì tôi càng không tiếc sức. Nhưng tôi không có sẵn tiền. Tôi là đạo chích. Vậy anh muốn tôi lấy của ai?”
“Trộm của phú ông ở cửa Tây”, chàng thư sinh trẻ nói.
Nghe đến đó, Quận Gió gạt ngay: “Không được. Phú ông ở cửa Tây giàu có là nhờ cày sâu, cuốc bẫm, lao động vất vả quanh năm suốt tháng trên các cánh đồng làng Nghi Tàm, Võng Thị. Không nên lấy của ông ấy”.
“Thế trộm của chủ cửa hiệu vàng bạc ở phố cửa Đông được không?”, chàng thư sinh ướm lời.
“Ông chủ cửa hiệu chế tác và bán đồ dùng vàng bạc phố cửa Đông là người ngay thẳng. Ông ta tích cóp được chút của ăn, của để là nhờ lăn lộn, khó nhọc trên thương trường. Không nên lấy của ông ấy", Quận Gió nói.
Người này cũng liên hệ câu chuyện: "Cũng như cậu, nếu sau này đậu đạt làm quan là do sôi kinh nấu sử, không ai nỡ lòng cướp đoạt gia sản của cậụ. Thôi để tôi đến nhà lão quan coi kho bạc nhà vua ở phố cửa Bắc chôm cho ông vài nén. Lão ấy hay ăn trộm bạc trong kho đem về nhà. Đó là những thứ không phải của hắn”, Quận Gió đáp.




Việt Sử                 - Page 2 Zingtuong
Tượng vua Lê Thánh Tông ở Văn Miếu Quốc Tử Giám.
Nói rồi, ông ta lao vào màn đêm. Một lát sau, Quận Gió mang về hai nén bạc dúi vào tay cậu thư sinh: “Học trò nghèo như cậu thì ta nhất định phải giúp. Số tiền này đủ để cậu về quê, còn thừa thì dùng vào việc dùi mài kinh sử. Hy vọng sau này, cậu sẽ làm rạng danh tổ tiên”.
Nhà vua ngạc nhiên, nửa tin nửa ngờ vì không nghĩ một viên quan thanh liêm mình tin tưởng giao trọng trách đó lại là người ăn cắp. Ông bèn lật nén bạc lên, soi dưới ánh đèn dầu thì thấy bên dưới đáy có khắc 4 chữ “Quốc khố chi bảo". Không còn nghi ngờ gì nữa, đây chính là bạc trong kho của Nhà nước.
Sáng mùng một Tết, trong buổi khai triều, vua Lê Thánh Tông đem câu chuyện vi hành kể cho các đại quan nghe. Hai nén bạc được truyền tới tay các quan để được xem tận mắt. Viên quan coi kho tối sầm mặt mũi, không thanh minh được lời nào. Ông ta bị cách chức, tịch thu gia sản và đày đi biên ải. Còn Quận Gió được nhận tấm biển vàng đề 3 chữ vua ban: “Trộm quân sử”.
Câu chuyện vi hành đêm 30 Tết của vua nhanh chóng lan ra khắp các vùng. Dân chúng thì mừng thầm bởi có vị vua anh minh, những tên quan lại sâu mọt thì lo sợ không dám làm thêm điều sai trái.
Trong các buổi thiết triều, vua Lê Thánh Tông thường yêu cầu các quan lại phải giữ mình liêm chính, ngay thẳng, trung thực, không vụ lợi cá nhân. Chỉ có như vậy mới được dân tin, dân quý và dân phục.
Dân gian còn rất nhiều câu chuyện kể về vua Lê Thánh Tông giúp đỡ học trò nghèo. Điều đó cho thấy ông là người rất quý trọng hiền tài, chú trọng phát triển giáo dục cho đất nước.
Một lần, nhà vua vi hành thấy cống sĩ chừng 50 tuổi chăm chú cúi đầu trên trang vở. Nhà vua đứng im phía xa, thấy người này mê mải đọc sách, thỉnh thoảng húp một ngụm cháo loãng. Trước lúc về, nhà vua đến gần hỏi nhỏ: "Cống sĩ húp cháo gì mà ngon thế?”
“Thưa bác, con húp cháo hoa, nhà con hết muối rồi”, người này đáp.

Nhà vua về một lúc, nội thị mang ra cho cống sĩ chĩnh muối để ăn với cháo mới có sức học khuya được. Cống sĩ sung sướng mở nắp chĩnh ra, vô cùng bất ngờ và cảm động bởi đó không phải chĩnh muối mà là đĩnh bạc.

Theo sách Đại Việt Sử Ký Toàn thư, năm 1497, Lê Thánh Tông mắc bệnh phù thũng. Quý phi Nguyễn Hằng, con gái của công thần Nguyễn Đức Trung, vốn bị thất sủng xa lánh lâu ngày, lấy cớ vào thăm bệnh rồi ngầm bôi thuốc vào tay, xoa lên những chỗ loét của ông.
Do đó, bệnh ông càng nặng thêm. Lê Thánh Tông băng hà ở điện Bảo Quang, hưởng dương 56 tuổi. Thái tử Lê Tranh, con thứ sáu của Lê Thánh Tông, lên kế nghiệp cha, lấy hiệu là Lê Hiến Tông.


Tống Hoa tổng hợp
phannguyenquoctu
phannguyenquoctu

Tổng số bài gửi : 7587
Join date : 25/10/2010
Age : 56
Đến từ : Sài Gòn

Về Đầu Trang Go down

Việt Sử                 - Page 2 Empty Re: Việt Sử

Bài gửi  phannguyenquoctu Wed May 31, 2017 3:35 pm

Thuốc độc giấu trong tay quý phi và cái chết của vị vua anh minh bậc nhất sử Việt

Đặng Tuấn 
Việt Sử                 - Page 2 000-1482558892164-28-0-182-249-crop-1482559266914

Có được người đẹp như duyên trời ban sẵn, lấy được vợ hiền tài sắc vẹn toàn, song cũng vì thế mà những trang cuối cuộc đời Lê Thánh Tông lại vô cùng nghiệt ngã.


Nhân duyên trời định

Lê Thánh Tông khi còn là hoàng tử, trong một lần đi dạo chơi bên bờ sông Tống Sơn – Thanh Hóa chợt thấy một cô gái xinh đẹp đang ngồi vo gạo dưới bến. Tức cảnh sinh tình, Lê Thánh Tông bèn ra một vế đối:
"Gạo trắng nước trong, mến cảnh lại càng thêm mến cả…".
Câu đối bỏ lửng như một lời ngỏ ý khéo léo khiến người ta phải rung động. Cô gái nghe thấy khúc khích cười rồi đối đáp lại:
"Cát lầm gió bụi, lo đời đâu đấy hãy lo cho…".
Câu đối vừa cho chàng trai một chút hy vọng nhưng vừa là một lời trách người con trai phải biết lo việc đời trước khi lo duyên, thế mới xứng là đấng nam nhi.
Nghe lời đối đáp ấy, trái tim vị hoàng tử trẻ loạn nhịp và thầm nghĩ sao trên đời lại có người con gái tài sắc vẹn toàn đến vậy. Lê Thánh Tông quyết phải chinh phục bằng được đóa hoa quý giá này.
Việt Sử                 - Page 2 000a-1482559011894-1482559045667
Tượng vua Lê Thánh Tông ở Văn Miếu Quốc Tử Giám.
Hoàng tử dò hỏi mãi, mới biết cô gái ấy tên là Nguyễn Thị Hằng, là con của tướng Nguyễn Đức Trung. Mà vợ của vị tướng này lại là bạn thân của mẹ hoàng tử. Đã có duyên gặp gỡ nay lại được thêm duyên phụ mẫu vun đắp. Mối tính của hoàng tử Lê Thánh Tông và Nguyễn Thị Hằng nhanh chóng đơm hoa kết trái.
Khi lên ngôi vua, Lê Thánh Tông liền phong Nguyễn Thị Hằng làm Sùng Nghi, cho ở cung Vĩnh Ninh để vua luôn được gần bên người đẹp.
Giấc mộng đẹp hóa đại nạn trong thực tại
Một đêm nọ, Sùng Nghi chiêm bao thấy mình được đưa lên trời gặp Ngọc Hoàng. Vừa thấy Ngọc Hoàng nàng vội quỳ xuống cầu xin ngài ban cho nàng một đứa con trai. Trước lời cầu xin chân thành của quý phi, Ngọc Hoàng bèn bảo rằng: "Được, cho Thiên Lộc xuống làm con họ Nguyễn".
Rồi ngài sai một cung nữ bế một bé trai ra đưa cho nàng. Nàng đưa hai tay lên đỡ thì hẫng một cái, nàng tỉnh dậy thấy tay mình vẫn còn giơ ra trước ngực.
Hôm sau, nàng đem chuyện giấc mộng lạ kể cho hoàng đế biết, Lê Thánh Tông nghe xong vui mừng nói với nàng: "Nếu ái khanh sinh được một hoàng nam, ta hứa ta sẽ cho hoàng tử kế vị, lên ngôi thiên tử".
Quả nhiên năm sau, Sùng Nghi Nguyễn Thị Hằng sinh hạ được một bé trai. Vua Thánh Tông mừng rỡ vô cùng, liền phong ngay cho làm quý phi và xuống chiếu cho con trai là Đông cung Thái Tử.
Từ ngày quý phi Sùng Nghi hạ sinh thái tử, thế lực gia tộc Nguyễn Thị trong triều ngày càng lớn mạnh, khiến quần thần ai lấy đều lo ngại dòng họ này sẽ làm chuyện quyền biến.
Đến một ngày, chuyện giấc mơ kỳ lạ của quý phi Sùng Nghi đến tai một vị cận thần. Ông ngẫm đi ngẫm lại rồi bất giác hỏi tại sao ngọc hoàng lại cho Thiên Lộc xuống làm con họ Nguyễn mà không phải họ Lê? Vị cận thần mỉm cười nhận ra đây chính là cơ hội làm giảm sút sức mạnh của gia tộc Nguyễn Thị.
Ngay lúc đó vị cận thần tức tốc vào cung và trình lên Vua Lê Thánh Tông thắc mắc của mình. Nghe lời tấu của vị cận thần, vua Lê Thánh Tông cũng giật mình nói: "Ngươi nói cũng phải. Bấy lâu nay, trẫm cũng hơi e về vai trò của Thái úy Trịnh Quốc trong triều. Khanh nên giữ kín chuyện này, để trẫm xét xem sao".
Việt Sử                 - Page 2 Http-sohanews-sohacdn-com-2016-000-1482558892164-1482583665002
Vua Lê Thánh Tông
Ít lâu sau, vua Lê Thánh Tông mắc bệnh lạ, toàn thân ngứa ngáy, đầy mụn nhỏ li ti, có nước…nhiều bậc danh y đến cứu chữa mãi mà không khỏi. Vua lo lắng bệnh tật, lại thêm những lời gièm pha của một số cận thần về gia tộc Nguyễn Thị.
Ngài quyết định giam quý phi Sùng Nghi vào cung Trường Lạc, bắt đầu có ý định không cho hoàng tử Thiên Lộc nối ngôi nữa.
Nguyễn Thị ở cung Trường Lạc gần như bị cô lập, bỏ rơi, mặc dầu chưa rõ hẳn ý vua, nhưng nàng đã phần nào hiểu sai lầm của mình trong việc kể cho Lê Thánh Tông nghe về giấc mộng của mình, điều đó khiến nàng vừa lo lắng, vừa đau lòng.
Đã bao lần nàng tìm cách tấu bày, minh oan, nhưng dường như nhà vua chẳng còn đoái hoài gì nữa. Tương lai của con trai nàng bị đe dọa, nàng thương con đến xót xa. Chỉ còn một tia hy vọng nhỏ nhoi lúc này là nhà vua chưa xuống chiếu truất quyền kế vị của Thiên Lộc.
Đại Việt sử ký toàn thư và sách 36 hoàng hậu, hoàng phi Thăng Long có chép lại rằng:

"Trong lo lắng, đau đớn, bỗng nàng thấy lóe lên một tia hy vọng, nếu ta…nếu ta dám làm điều này! Thôi, nàng nghĩ cũng phải vì con, vì dòng họ!", trích 36 hoàng hậu, hoàng phi Thăng Long.
Hôm sau, Sùng Nghi Nguyễn Thị năm nỉ xin được vào thăm Thánh thượng một lần, trước khi ngài nguy kịch. Thật ra, lúc này bệnh của vua Thánh Tông đã rất nặng rồi. Ngài cũng nhớ tới quý phi và Thái tử, nên suy nghĩ một lát, ngài quyết định cho nàng vào gặp.

Nguyễn Thị vào trông thấy Thánh Tông, liền quỳ xuống, ôm lấy tay Lê Thánh Tông mà khóc nức nở, rồi nàng xoa bóp tay chân, tiếp đó ngầm giấu thuốc độc trong tay mà sờ vào những vết ngứa lở của nhà vua, tỏ vẻ đầy thương xót.
Hôm sau, bệnh vua Thánh Tông càng nặng hơn, ngài mê man rồi băng hà mà không trối trăng được điều gì. Bởi thế cứ thiên lệnh cũ, Hoàng Nam, Thiên Lộc con của quý phi NguyễnThị Hằng được lên ngôi, lấy hiệu là Hiến Tông. Sau khi đăng quang, vua HiếnTông tôn phong mẹ là Hoàng Thái hậu.
Nguồntham khảo:

- Hoàng hậu hoàng phi Thăng Long Hà Nội – Nhà Xuất BảnThanh Niên, trang 79-85.
- Đại Việt Sử Ký ToànThư, Tập 2 – NXB Khoa học xã hội - Ấn phẩm năm 1998; Phần bản kỷ thực lục, QuyểnXIII: Thánh Tông Thuần Hoàng Đế (phần hạ), trang 520
(st)
phannguyenquoctu
phannguyenquoctu

Tổng số bài gửi : 7587
Join date : 25/10/2010
Age : 56
Đến từ : Sài Gòn

Về Đầu Trang Go down

Việt Sử                 - Page 2 Empty Re: Việt Sử

Bài gửi  phannguyenquoctu Wed May 31, 2017 3:40 pm

Lương Thế Vinh khiến vua Lê Thánh Tông sợ suýt khóc, rồi lại cười lớn thưởng vàng

Lưu Thủy | 14/12/2016 06:40 PM
Việt Sử                 - Page 2 Nhung-giai-thoai-hay-ve-luong-the-vinh-1481610698593-0-0-307-494-crop-1481610707525


Lương Thế Vinh là vị trạng nguyên đa tài và không kém phần lém lỉnh. Đã nhiều phen ông khiến nhà vua vừa bội phục vừa buồn cười chính vì tính cách ấy.








  • Mối nhân duyên giữa hai vĩ nhân







Tục truyền lại rằng, hoàng thái hậu Quang Thục lúc trước có mơ thấy ngọc hoàng sai một tiên đồng xuống làm con mình. Tiên đồng này không chịu, bị Ngọc Hoàng ném hốt ngọc vào trán cho chảy máu, lúc đó mới phụng phịu, đòi phải có bạn xuống cùng.
Thế là ngọc hoàng mới sai một tiên đồng khác cùng hạ phàm. Tiên đồng này cũng không đồng ý, liền bị Ngọc Hoàng vỗ cho lệch vai.
Về sau, hoàng thái hậu có mang rồi sinh ra đứa con trai có vết bớt đỏ ở trán, giống như tiên đồng bị ném hốt ngọc vào đầu như giấc mơ nọ. Tương truyền, đó chính là vua Lê Thánh Tông.
Đến khi Lương Thế Vinh đỗ trạng, hoàng thái hậu ngắm dáng hình của ông giống với tiên đồng còn lại trong giấc mơ nọ, liền lấy làm lạ, kể lại với vua, vua cũng cho việc ấy là lạ. Vả lại, vua cũng thích thư từ văn chương của vị trạng họ Lương, mới cho ông luôn luôn ở gần mình để giúp việc thư từ.
Mối quan hệ vua tôi khăng khít dần, thân thiết đến nỗi vua Lê Thánh Tông tranh thủ mọi cơ hội để "trêu đùa", "đánh đố" vị thần tử này.


Việt Sử                 - Page 2 1-1481610417075-1481629308136
Lê Thánh Tông trong trang phục cổn miện tế trời_minh họa Duy Trần


Nhưng Lương Thế Vinh cũng chẳng phải tay vừa, không chỉ ứng đáp trôi chảy, ông còn thể hiện được cả sự thông minh, hài hước của mình qua mỗi câu nói. Có những câu chuyện giữa hai vị vua tôi này trở thành giai thoại được truyền tụng mãi về sau.
Vế đối chỉnh, nhưng "minh họa" cũng phải chỉnh
Một lần, vua Lê Thánh tông đi kinh lý vùng Nam Sơn hạ, ghé thăm làng Cao Hương, huyện Vụ Bản, quê hương của trạng nguyên Lương Thế Vinh, bấy giờ cũng đang theo hầu vua.
Khi vua đến thăm chùa làng đương lúc sư cụ bận tụng kinh. Bỗng sư cụ đánh rơi chiếc quạt xuống đất nhưng vẫn tiếp tục, sau đó lấy tay ra hiện cho chú tiểu cúi xuống nhặt, nhưng một vị quan tùy tòng của Lê Thánh Tông đã nhanh tay làm hộ.
Vua Lê Thánh tông thấy vậy, liền nghĩ ra một vế đối như sau:


"Đường thượng tung kinh, sư sử sứ…".


Nghĩa là:


Trên bục đọc kinh, nhà sư sai khiến được sứ (quan).


Câu này oái oăm ở ba chữ "sư sử sứ", khiến các quan đều chịu, không nghĩ ra được gì. Trạng nguyên Lương Thế Vinh cứ để họ suy nghĩ chán chê, còn mình thì ung dung uống rượu, không nói năng chi cả. Vua Thánh Tông quay sang chỉ đích danh ông, với hy vọng đưa ông đến thế bí:


-Thế nào, quan trạng đối được câu này chăng?


Trạng cười trừ:


-Đối thì đối được, nhưng giờ chưa phải lúc.


Vua lấy làm tò mò lắm, hỏi là lúc nào, nhưng trạng không trả lời. Hồi lâu sau, Lương Thế Vinh lấy cớ say, sai lính gọi bà trạng tới, rồi sau đó xin phép vua, vịn vào vợ mà về. Vua thấy trạng mọi khi giỏi ứng đối, thế mà đến bây giờ vẫn chưa đối được câu của mình, tưởng ông "đánh bài chuồn", lấy làm đắc ý lắm, liền giục:


-Thế nào, đối được hay không thì nói đã rồi hẵng về chứ!


Vinh gãi đầu rồi đáp ngập ngừng:


-Dạ,muôn tâu…thần…đối rồi đấy chứ ạ.


Vua và các quan lấy làm lạ, bèn hỏi trạng vế đối ấy là làm sao. Trạng liền chỉ vào vợ mình, dõng dạc đọc, nào có dáng vẻ của người say:


"Đình tiền túy tửu, phụ phù phu."


Nghĩa là:


Trước sân say rượu, vợ dìu chồng.


Về đối rất chỉnh, cả câu chữ lẫn…ngữ cảnh, khiến cho vua bật cười, liền ban thưởng rất hậu.
Thánh quân minh đế


Việt Sử                 - Page 2 2-1481610520053
Lương Thế Vinh_nguồn:wiki


Lê Thánh Tông biết Lương Thế Vinh thưở bé nghịch ngợm, hay tắm sông hồ, giỏi bơi lội, nên một hôm chơi thuyền có trạng Lường và các quan lại theo hầu, vua liền giả vờ say rượu rồi…đẩy tòm ông rơi xuống sông, sau đó tiếp tục cho thuyền chèo đi chỗ khác.
Không ngờ Lương Thế Vinh rơi xuống, liền lặn một hơi thật xa, rồi đến một chỗ vắng bơi lên bờ, sau đó núp vào bụi rậm để không ai nhìn thấy.
Vua chờ mãi không thấy trạng trồi đầu lên. Mặt nước mênh mông không một cái sủi tăm. Bấy giờ mới hoảng hồn, vội cho quân lính nhảy xuống tìm vớt, nhưng cũng mãi chẳng thấy đâu.
Vua hết sức ân hận vì lối chơi đùa quá quắt của mình, thậm chí còn muốn khóc, thì tự nhiên thấy Lương Thế Vinh từ dưới nước lên ngóc đầu lên cười ngất.


Việt Sử                 - Page 2 Photo-1-1481629639279
Trạng Lương Thế Vinh. Ảnh kienthuc.net.vn


Khi lên đến thuyền rồi, Vinh vẫn cười. Vua vừa mừng vừa giận, liền hỏi:



-Trẫm tưởng khanh ở dưới sông rất tốt, sao còn lên bờ?


Trạng mới tâu:
-Thần ở dưới nước lâu là vì gặp một chuyện rất kì lạ. Thần gặp cụ Khuất Nguyên. Cụ hỏi thần xuống làm gì. Thần thưa dối là thần chán đời muốn chết.
Nghe qua, cụ tròn xoe mắt mắng thần: "Mày là thằng điên! Tao gặp Sở Hoài Vương và Khoảnh Tương Vương hôn quân vô đạo, mới bỏ nước bỏ dân trầm mình ở sông Mịch La. Chứ mày gặp được bậc thánh quân minh đế, sao còn định vớ vẩn cái gì!" Thế rồi cụ đá thần một cái, thần mới về đây.
Lê Thánh Tông nghe xong, thấy trạng không trách mà còn…nịnh khéo mình, liền cười lớn rồi thưởng cho vàng lụa và trọng dụng trạng hơn nữa.
Lời bình:
Lương Thế Vinh quả là vị trạng khôn khéo, biết tùy cơ ứng xử. Ông nịnh vua cũng không phải nịnh sai. Dưới một triều đại mà quân thần hòa ái, vua sáng tôi hiền, lẽ tất nhiên sẽ mang đến một thời kì thịnh trị.
Nguồn tham khảo
- Lịch triều hiến chương loại chí (NXB Trẻ_2014)
- Giai thoại văn học Việt Nam (NXB Văn học_1988)
(st)
phannguyenquoctu
phannguyenquoctu

Tổng số bài gửi : 7587
Join date : 25/10/2010
Age : 56
Đến từ : Sài Gòn

Về Đầu Trang Go down

Việt Sử                 - Page 2 Empty Re: Việt Sử

Bài gửi  phannguyenquoctu Wed May 31, 2017 3:51 pm



phannguyenquoctu
phannguyenquoctu

Tổng số bài gửi : 7587
Join date : 25/10/2010
Age : 56
Đến từ : Sài Gòn

Về Đầu Trang Go down

Việt Sử                 - Page 2 Empty Re: Việt Sử

Bài gửi  phannguyenquoctu Wed May 31, 2017 4:03 pm

phannguyenquoctu
phannguyenquoctu

Tổng số bài gửi : 7587
Join date : 25/10/2010
Age : 56
Đến từ : Sài Gòn

Về Đầu Trang Go down

Việt Sử                 - Page 2 Empty Re: Việt Sử

Bài gửi  phannguyenquoctu Wed May 31, 2017 4:07 pm

phannguyenquoctu
phannguyenquoctu

Tổng số bài gửi : 7587
Join date : 25/10/2010
Age : 56
Đến từ : Sài Gòn

Về Đầu Trang Go down

Việt Sử                 - Page 2 Empty Re: Việt Sử

Bài gửi  phannguyenquoctu Wed May 31, 2017 4:46 pm

Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592)


Tháng Tư 29, 2016, in Lịch sử Việt Nam and tagged mạc đăng dungnhà mạcVĩnh Liêm. Bookmark the permalink. 5 phản hồi

Việt Sử                 - Page 2 78_nguyenanh
Vĩnh Liêm –Văn Uyên
 I. Tranh luận về việc đặt tên đường Mạc Thái Tổ và Mạc Thái Tông ở Hà Nội – Triều đại Mạc Đăng Dung và Mạc Đăng Doanh 
          Đầu tháng 6/2015 Sở VHTT&DLHà Nội đã đề xuất HĐNDTP Hà Nội đặt hai con phố mang tên Mạc Thái Tổ và Mạc Thái Tông thuộc quận Cầu Giấy. Trong đó, tên phố Mạc Thái Tổ (tức vua Mạc Đăng Dung) được đặt cho đoạn đường từ ngã ba giao cắt đường Phạm Hùng đến ngã tư giao cắt phố Trung Kinh, có chiều dài 900m, rộng 60m. Còn đoạn đường đặt tên phố Mạc Thái Tông (tức vua Mạc Đăng Doanh) từ ngã ba giao cắt với đường Phạm Hùng (cạnh công ty cổ phần lắp máy xây dựng, đối diện cổng sau Trung Tâm Hội Nghị Quốc Gia) đến ngã tư giao cắt với phố Trung Kinh, nối tiếp phố Vũ Phạm Hàm, có chiều dài 840m, rộng 17m. (trích “Tranh luận xung quanh việc đặt tên phố Mạc Thái Tổ và Mạc Thái Tông ở Hà Nội” - Thanh Hằng)


Như vậy so với các con đường ở Hà Nội và trên toàn quốc thì đây là hai con đường rộng và bề thế nhất nước.


Việc đặt tên đường Mạc Thái Tổ và Mạc Thái Tông đã làm dấy lên cuộc tranh luận gay gắt giữa hai quan điểm ủng hộ và chống, nhưng xem ra quan điểm ủng hộ chiếm đa số với những nhà sử học tên tuổi như GS sử học Văn Tạo, nguyên viện trưởng Viện Sử học, giáo sư Phan Huy Lê, chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, PGS. TS Đinh Quang Hải, Viện trưởng Viện Sử học – Viện hàn lâm KHXH Việt Nam v.v…


Theo ý kiến của các nhà sử học này thì:
– Khi khủng hoảng cung đình diễn ra trầm trọng, triều đình đổ nát, dân tình cực khổ, Mạc Đăng Dung đã dẹp được các phe phái phân chia cát cứ, lên ngôi tạo dựng được cơ nghiệp. Với 65 năm tồn tại và phát triển, nhà Mạc đã có cống hiến nhất định trong lịch sử.
– Mạc Đăng Dung còn được đánh giá cao vì ông phế bỏ nhà Lê sơ để lên ngôi nhưng đãkhông thi hành một cuộc tàn sát nào với con cháu những người trung thành với nhà Lê như đã từng xảy ra khi nhà Trần lên thay nhà Lý, nhà Hồ lên thay nhà Trần…
Phe phản đối tiêu biểu là PGS.TS Trần Thị Băng Thanh đã đưa ra các dẫn chứng từ sử sách của ta và cả triều Minh (TQ) để chứng minh đối sách ngoại giao sai lầm của nhà Mạc khi dâng đất, xin hàng, xin nội thuộc nhà Minh nên không thể coi là có công với đất nước… Riêng nhà sử học Lê Văn Lan từ chối cho biết ý kiến. (theo Thanh Hằng, bài đã dẫn).
Gần đây trên diễn đàn mạng có bài viết của Tôn Nữ Tịnh Tâm với tiêu đề Viết Tiếp “CẤM PHÓNG UẾ VÀO LỊCH SỬ” (trao đổi về bài tạp văn “Cấm phóng uế vào lịch sử” của Hoàng Thiếu Phủ -Hồn Việt số 90 trang 2&3- 2015) trong đó tác giả phản ứng gay gắt lập luận của Hoàng Thiếu Phủ khi HTP kể tội Mạc Đăng Dung (tội cướp ngôi, tội đầu hàng, tội cắt đất) và ngược lại tác giả đã kể nhiều công lao to lớn của Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc:
– Chấm dứt tình trạng loạn lạc nghiêm trọng của Đại Việt, mở ra một thời kỳ thái bình thịnh trị.
– Quan tâm đến giáo dục
– Kinh tế phát triển, đặc biệt nông nghiệp
– Lòng người hướng về nhà Mạc vẫn chưa hết khi vận trời đã về nhà Lê trung hưng
Tôn Nữ Tịnh Tâm đã trích dẫn từ các nguồn sử sách như Đại Việt sử ký toàn thư của các sử thần nhà Lê, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn, Vũ Trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim để chứng minh lập luận của mình, nhưng tiếc thay những lập luận này thiếu vũng chắc , trích dẫn không đầy đủ hoặc tác giả không hiểu hết ý của các sử gia.



Trong mong muốn làm sáng tỏ những nghi vấn lịch sử, đồng thời đánh giá đúng vai trò của Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc đối với lịch sử Việt Nam, dựa vào các nguồn sử liệu đáng tin cậy, chúng ta hãy ngược dòng lịch sử tìm hiểu sự xuất hiện và vị trí của Mạc Đăng Dung cùng triều đại nhà Mạc trên chính trường Đại Việt vào những năm của thế kỷ XVI.


Nhà Hậu Lê từ Lê Thái Tổ (1428-1433) đến Lê Hiến Tông (1497-1504) rất thịnh trị, đặc biệt triều đại vua Lê Thánh Tông (1460-1497), đất nước ta phát triển về mọi mặt, dân cư no ấm, chính trị ổn định, lân bang nể phục.
Đến năm 1505 vua Lê Túc Tông (con của Hiến Tông) lên nối ngôi chỉ được 6 tháng thì mất, triều đình tôn người anh thứ hai của Túc Tông là Tuấn lên làm vua, tức vua Uy Mục (1505-1509). Kể từ khi Uy Mục lên ngôi, nhà Lê bước vào thời kỳ suy yếu. Uy Mục là vị vua hung ác, mới lên ngôi đã giết tổ mẫu là bà Thái hoàng Thái hậu, quan Lễ bộ Thượng thư là ông Đàm Văn Lễ và quan Đô ngự sử là ông Nguyễn Quang Bật vì khi vua Hiến Tông chết, những người này không chịu lập Uy Mục làm vua.


Chính vì cần người có sức khỏe để bảo vệ ngai vàng, nên thời Uy Mục, Mạc Đăng Dung, cháu 7 đời của danh thần Mạc Đĩnh Chi, nhà nghèo làm nghề đánh cá, có sức khỏe, dự thi nghề Giao chật (đánh vật) trúng Đô lực sĩ xuất thân, được sung vào Túc vệ, giữ việc cầm dù theo vua, rồi thăng bổ chức Đô chỉ huy sứ vệ Thiên vũ. Năm Hồng Thuận thứ 3 (1511) thời Tương Dực, được thăng làm Đô chỉ huy sứ Vũ Xuyên bá, (năm này Đăng Dung 29 tuổi). Thời Quang Thiệu (Chiêu Tông), triều đình sai trấn thủ Sơn Nam, gia phong chức phó Tướng Tả đô đốc. (ĐVTS trang 34 và ĐVSKTT quyển XV trang 591 bản điện tử).


Như vậy Mạc Đĩnh Chi và Mạc Đăng Dung đều được nhà Trần và nhà Lê trọng dụng. Nhưng nếu Mạc Đĩnh Chi được nhà Trần trọng dụng vì học thức rộng và sự thanh liêm thì Mạc Đăng Dung được các vị vua cuối đời Lê tin dùng nhờ cơ bắp nhằm bảo vệ ngai vàng vì lúc này chính sự nhà Lê đã đổ nát (bên ngoài giặc giã nổi lên, trong triều thì quan lại chia phe đánh nhau).


Theo Đại Việt Thông sử (trang 35 bản điện tử) thì “Đăng Dung là người rất gian trá, nhưng bề ngoài làm ra vẻ thật thà ngay thẳng, để mua danh dự…”.. 


Việt Nam Sử lược, trang 274 ghi: “Mạc Đăng Dung bấy giờ quyền thế hống hách, ra vào cung cấm tiếm dụng nghi vệ thiên tử. Các quan ai có vì nhà vua mà can gián điều gì, thì Đăng Dung tìm cách giết đi. Các quan triều thần có nhiều người thấy quyền lớn về cả họ Mạc, cũng bỏ vua mà theo phò Mạc Đăng Dung.” Hễ Đăng Dung dâng sớ xin giết ai thì các vua Lê đều nghe theo như trường hợp Cù Khắc Xương, Trần Công Vụ hay Lê Quảng Độ… bị giết thời Chiêu Tông (Toàn Thư trang 574-575 bản điện tử, Đại Việt Thông Sử trang 35 bản điện tử). 
Đây là điều kiện thuận lợi để Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê.
Năm Quang Thiệu thứ 3 (1518) thời Chiêu Tông, Mạc Đăng Dung thăng tước Vũ Xuyên Hầu, ra trấn thủ Hải Dương, thu thập dân quân, chỉnh đốn đội ngũ, binh số ngày thêm nhiều. Lúc này Thiết Sơn Bá Trần Chân nắm quyền binh trong Kinh Sư, Đăng Dung bèn cưới con gái Chân cho con trai mình là Đăng Doanh để làm vây cánh.(ĐVTS trang 36)
Vua Chiêu Tông nghe lời gièm pha giết Trần Chân khiến đồ đệ của Trần Chân cử binh đánh vào kinh đô, nhà vua chạy sang huyện Gia Lâm, triệu Hoằng Dụ cứu nhưng Dụ không đến, nhà vua đành sai người đi triệu Mạc Đăng Dung. “Ý ngài muốn cậy binh lực của Đăng Dung để khôi phục lại Kinh Sư. Nhưng Đăng Dung thấy triều đình rối loạn, bèn nẩy ra mưu đồ khác” (ĐVTS trang 36 bản điện tử). Trang 37 ĐVTS ghi “Sau khi Đăng Dung một mình giữ binh quyền, từng bình được nhiều giặc lớn, uy quyền ngày càng thịnh, mà đạo quân nhà vua thì yếu ớt, lòng người ai cũng hướng về Đăng Dung, nên y càng lưu tâm mưu việc phản nghịch.”


Thế mà Tôn Nữ Tịnh Tâm cũng trích dẫn từ “Đại Việt Thông Sử” của Lê Quý Đôn nhưng lại cắt bỏ phần không lợi cho lập luận của mình để dựng lên hình tượng một Mạc Đăng Dung xứng đáng với ngôi thiên tử vì được dân tin yêu. TNTT ghi “Sau khi Mạc Đăng Dung một mình giữ binh quyền, từng bình được nhiều giặc lớn, uy quyền ngày càng thịnh, lòng người ai cũng hướng về ” (TNTT ghi chú trang 15). TNTT đã cắt bỏ phần sau (“nên y càng lưu tâm mưu việc phản nghịch”)


Chúng ta đều biết nhân dân chỉ muốn một cuộc sống thanh bình để làm ăn sinh sống nên việc hướng về Mạc Đăng Dung vì Dung đã dẹp được giặc giã là chuyện tất nhiên. Còn mưu đồ của Đăng Dung như thế nào, Dung có xứng đáng làm thiên tử hay không lại là vấn đề khác.


Kể từ đó Đăng Dung tự xem mình như thiên tử. “…Khi Đăng Dung đi đường bộ thì dùng lọng phượng bông vàng; khi đi đường thủy thì dùng thuyền rồng dây lụa. Tự do ra vào nơi cung cấm, không hề nể sợ. Lại giết hết những người tâm phúc của vua…” (ĐVTS trang 37). Điều này chứng tỏ Đăng Dung là kẻ hiếu sát, rắp tâm cướp ngôi nhà Lê. (Các sử gia Hà Nội cho rằng MĐD không giết những ai trung thành với vua Lê ).


Dĩ nhiên khi một triều đại quá thối nát thì việc thay thế một triều đại khác là vấn đề bức thiết, nhưng không thể là một triều đại mà thiên tử là kẻ hiếu sát với dân và hèn hạ với ngoại bang như Mạc Đăng Dung được.


Vua Chiêu Tông thấy tình thế bức bách bèn ngầm với Nguyễn Hiến và Phạm Thứ dời kinh đô ra ngoài hiệu triệu các tướng đến giúp. Ngày hôm sau Đăng Dung mới biết bèn sai quân ngăn chặn khắp nơi, lập Hoàng đệ Xuân lên ngôi tức vua Cung Hoàng.(1522-1527)


Vua Chiêu Tông chạy lên Sơn Tây, nhiều người hào kiệt về giúp ngày càng đông, nhưng vì vua nghe lời những kẻ hoạn quan không nghe lời các tướng, lòng người ly tán. Năm Giáp Thân (1524) Đăng Dung đánh Thanh Hóa, Trịnh Tuy thua trận chết, vua bị bắt đem về Đông Hà (huyện Thọ Xương), rồi bị giết. Vua Chiêu Tông làm vua được 11 năm, thọ 26 tuổi.


Tháng 6 Đinh Hợi (1527) Đăng Dung bắt các quan nhà Lê thảo bài chiếu truyền ngôi cho nhà Mạc, dùng năm này làm niên hiệu Minh Đức thứ nhất, bỏ Cung Hoàng xuống tước Cung vương, giam cùng Thái Hậu ở cung Tây nội, rồi giết chết . Đăng Dung sai đem xác hai người để phơi ngoài quán Bắc sứ, sau đưa về chôn ở lăng Hoa Dương, huyện Ngự Thiên theo nghi lễ của thiên tử và hoàng hậu. (TT trang 591quyển XV bản điện tử). Lúc này thần dân thất vọng, thiên hạ nôn nao (ĐVTS trang 40).


Các quan trong triều không phục, nhiều người đã phản kháng: nhổ vào mặt Đăng Dung, lấy nghiên đập vào mặt Đăng Dung, chưởi mắng… tất cả những người này đều bị Đăng Dung giết, có người nhảy xuống sông mà chết, có người thì quay đầu về Lam Sơn mà lạy rồi tự tử (VNSL trang 275).


TNTT trích tờ chiếu nhường ngôi của Cung Hoàng để biện minh cho sự cướp ngôi của Mạc Đăng Dung. Thực tế chiếu nhường ngôi được các quan nhà Lê thảo ra dưới sức ép của Đăng Dung dĩ nhiên phải ca tụng Đăng Dung nhằm hợp thức hóa việc cướp ngôi này là chính đáng. TNTT còn trích một cách có chủ ý câu ”… Bấy giờ, thần dân trong kinh đều theo Mạc Đăng Dung và đều đón Mạc Đăng Dung vào kinh ” nhưng bỏ phần đầu. Câu đầy đủ đoạn này là “Tháng 6, Mạc Đăng Dung từ Cổ Trai vào Kinh, bắt vua (Cung Hoàng) nhường ngôi. Bấy giờ, thần dân trong kinh đều theo Mạc Đăng Dung và đều đón Đăng Dung vào kinh” (TT trang 590 bản điện tử). Việc “thần dân trong kinh đều theo Mạc Đăng Dung và đều đón Đăng Dung vào kinh” chẳng qua cũng là sự mong ước của thần dân cho một tương lai đất nước sáng sủa hơn, có ngờ đâu chỉ là sự lừa bịp.


Mùa đông tháng 12 Kỷ Sửu (1529), Mạc Đăng Dung cướp ngôi được 3 năm, tự thấy mình tuổi già (lúc này MĐD 47 tuổi) bèn truyền ngôi cho con trưởng là Đăng Doanh, tự xưng Thái thượng hoàng, ra ở điện Tường Quang, coi nghề đánh cá là thú ngao du tự lạc. (TT trang 593 bản điện tử). ĐVTS ghi .”Tuy đã nhường ngôi nhưng thực tế mọi việc trong nước đều do Đăng Dung định đoạt...” (Đăng Doanh ở ngôi được 10 năm 1530-1540)


Đăng Dung về Cổ Trai ở để trấn vững nơi căn bản, và làm ngoại viện cho Đăng Doanh (ĐVTS trang 41).


Đăng Dung sai người sang Yên Kinh báo cho nhà Minh rằng con cháu nhà Lê không còn ai, xin tạm coi việc nước, cai trị dân chúng. Vua Minh không tin, sai người sang thăm dò, Dung đem vàng bạc đút lót để sứ giả tâu với vua Minh rằng con cháu họ Lê đã hết, không ai nối ngôi được nên ủy thác cho họ Mạc. Vua Minh mắng không nghe, Đăng Dung sợ nhà Minh hỏi tội, bèn lập mưu cắt đất dâng hai châu Quy, Thuận, hai tượng người bằng vàng và bạc cùng châu báu, của lạ, vật lạ. Vua Minh thu nhận. Từ đấy Nam Bắc lại thông sứ đi lại. (TT trang 592 quyển XV bản điện tử).


Ở tội đút lót vàng bạc và cắt đất dâng cho nhà Minh của Mạc Đăng Dung, TNTT so sánh với việc Lê Lợi sau chiến thắng quân Minh cũng dâng biểu cầu phong, cũng nộp lễ cống, nộp tượng vàng thế thân v.v.. để biện minh cho hành động hèn nhát của Mạc Đăng Dung trước ngoại bang mà không hiểu (hoặc cố tình không hiểu) rằng Bình Định vương Lê Lợi đứng trên cương vị Vua của nước nhỏ thắng trận muốn có một chính sách hòa bình lâu dài với nước lớn cận kề để tránh cho dân tộc khỏi chịu cảnh đao binh triền miên. Đây là sự nhún nhường ngoại giao cần thiết cho bất cứ nhà lãnh đạo các nước nhỏ nào. Còn với Mạc Đăng Dung lại khác, đó là tội cướp ngôi giết vua trắng trợn không có sự đồng thuận của toàn dân ngoại trừ những kẻ a dua “theo đóm ăn tàn”, và tội khiếp nhược hèn nhát trước ngoại bang.


Năm Đinh Dậu (1537) vua nhà Minh (nhân cơ hội này) sai Cừu Loan làm Đô đốc, Mao Bá Ôn làm Tán lý quân vụ, đem quân đem quân sang đóng gần cửa Nam Quan rồi truyền hịch đi mọi nơi, thưởng quan tước và hai vạn bạc cho ai bắt được cha con Mạc Đăng Dung. Lại sai người mang thư sang cho Mạc Đăng Dung bảo phải đưa sổ ruộng đất nhân dân sang nộp và chịu tội, thì được tha cho khỏi chết. Đăng Dung sai bọn Nguyễn Văn Thái sang sứ nhà Minh xin hàng (VNSL trang 294).


Đến tháng 11 Canh Tý (1540) Đăng Dung vận áo trắng, tự quấn dây sợi vào cổ, dẫn cháu họ là Văn Minh cùng bầy tôi (9 người), mỗi người đều cầm thước, buộc dây ở cổ (biểu thị sự tự trói mình và chịu nhận hình phạt – ghi chú của Toàn Thư trang 599 quyển XVI bản điện tử) đến chực ở cửa Nam Quan, đi chân không đến phủ phục trước mạc phủ của quân Minh, quỳ gối, cúi đầu dâng biểu đầu hàng và bạ ghi chép thổ địa quân dân trong nước, tình nguyện nộp các động Tư Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm và Liễu Cát trong châu Yên Quảng và châu Vĩnh Yên để lệ thuộc vào Khâm Châu; xin ban cho niên lịch và ấn tín. Sau khi tướng nhà Minh nhận hàng, bèn sai Văn Minh, Nguyễn Giản Thanh và Hứa Tam Tỉnh mang tờ hàng biểu đầu hàng tới Yên Kinh dâng vua Minh. (ĐVTS trang 42-43, TT trang 599 quyển XVI bản điện tử). Hành động đầu hàng nhục nhã này của Đăng Dung chưa thấy ở một vị vua nào của nước ta nhưng đáng tiếc TNTT lại dùng những luận điệu ngụy biện để gỡ tội cho Đăng Dung: “MĐD không “phản quốc” “nhục nhã” “hèn hạ” như ai đó đã kết tội (ám chỉ Hoàng Thiếu Phủ), mà ngược lại là một người đáng kính trọng vì đã dám hy sinh danh dự cá nhân cho đại cục của dân tộc, nhờ đó tránh được nguy cơ chiến tranh xâm lược từ nước láng giềng khổng lồ”.


Hành động “đi chân không, quỳ gối, cúi đầu dâng biểu đầu hàng” của Mạc Đăng Dung là hành động khiếp nhược, làm nhục quốc thể chứ không thể là hành động đáng kính trọng.


Bình Định Vương Lê Lợi sau khi đánh tan quân nhà Minh cũng chỉ sai sứ sang nhà Minh mang lễ vật hậu hỷ (có hai tượng người bằng vàng) để cầu hòa chứ ngài không đích thân đi; Quang Trung Nguyễn Huệ sau khi đánh tan 10 vạn quân Thanh xâm lược thì cử Phạm Công Trị đóng giả vua đem đồ cống phẩm và dâng biểu cầu phong vua Thanh. “Vua Càn Long tưởng là Quang Trung thật, vời đến chầu ở Nhiệt Hà, cho vào làm lễ ôm gối như tình cha con một nhà. Đến lúc về nước lại sai thợ vẽ một bức ảnh truyền thần để ban cho… “. (VNSL trang 403). Những vị vua như vậy mới xứng đáng được dân tộc tôn thờ, còn Mạc Đăng Dung thì ngược lại, đáng bị nguyền rủa (22 tháng 8 Tân Sửu (1541) Mạc Đăng Dung chết thọ 59 tuổi)


TNTT cho rằng thời nhà Mạc, đặc biệt thời Mạc Thái Tổ (MĐDung) và Mạc Thái Tông (MĐDoanh) là thời thái bình thịnh trị là không chính xác vì khi MĐD cướp ngôi nhà Lê thì cựu thần nhà Lê hoặc bị thanh trừng, hoặc tuẩn tiết hoặc trốn ra nước ngoài (Ai Lao) để mưu việc phục quốc, nhiều cuộc khởi nghĩa của con cháu nhà Lê và các cựu thần nhà Lê đã diễn ra khắp nơi:
Kỷ Sửu (1529) (Mạc Minh Đức năm thứ 3) bề tôi cũ của nhà Lê là hai anh em Trịnh Ngung, Trịnh Ngang chạy sang tố cáo với nhà Minh. Do họ Mạc đem nhiều lễ đút lót cho nhà Minh, việc không thành, hai anh em đều chết ở bên Minh (TT trang 593 bản điện tử).


Năm Canh Dần (1530) con công chúa An Thái là Lê Ý khởi binh chống lại ở Châu Gia xưng niên hiệu là Quang Thiệu, nhân dân đều hưởng ứng (ĐVTS trang 41 bản điện tử), Đăng Dung bị thua nhiều trận, nhưng do Lê Ý chủ quan bị đánh úp nên bị bắt đem về Đông Kinh và bị giết.


An Thanh hầu Nguyễn Kim (con của Nguyễn Hoằng Dụ) bề tôi cũ của nhà Lê dẫn con em chạy sang Ai Lao nương nhờ chúa Sạ Đẩu, Sạ Đẩu đem nhân dân và đất Sầm Châu cấp cho Kim. Từ đó Nguyễn Kim nuôi dưỡng sĩ tốt, chiêu nạp những kẻ chạy trốn, làm phản, ngầm tìm con cháu nhà Lê lập nên để mưu khôi phục.


Xuân Tân Mão (1531) An Thanh Hầu Nguyễn Kim dẫn quân từ Ai Lao về Thanh Hoá, Đăng Dung sai binh đánh, bị thua to.


Xuân Quý Tỵ (1533) (ở TT trang 595 ghi tháng 12 Nhâm Thìn) các cựu thần nhà Lê dựng Lê Duy Ninh (con của Chiêu Tông) lên ngôi ở Ai Lao tức Lê Trang Tông, cho người sang nhà Minh kể tội Đăng Dung, xin nhà Minh đánh dẹp. Sợ nhà Minh sang hỏi tội, Đăng Dung mật sai người hối lộ, xin cắt đất nộp nhà Minh và từ bỏ đế hiệu. (như phần trên đã ghi)


Năm Canh Tý (1540) Nguyễn Kim đem quân về đánh Nghệ An. Năm Nhâm Dần (1542) Trang Tông cất quân đánh Thanh Hóa và Nghệ An, qua năm sau (1543) thì thu phục được đất Tây Đô, quan tổng trấn nhà Mạc là Dương Chấp Nhất ra hàng.


Lúc này đất nước chia đôi, gọi là thời Nam Bắc Triều: từ Thanh Hoa trở vào thuộc nhà Lê, làm Nam Triều, từ Sơn Nam trở ra thuộc họ Mạc, làm Bắc triều. Hai bên đem quân đánh lẫn nhau kéo dài nửa thế kỷ.


Còn việc “cấm người các xứ trong, ngoài không được cầm giáo mác và dao nhọn, can qua cùng những binh khí khác hoành hành trên đường đi. Ai vi phạm thì cho pháp ty bắt giữ ” đưa đến kết quả: “…Từ đấy, người buôn bán và kẻ đi đường đều đi tay không, ban đêm không còn trộm cướp, trâu bò thả chăn không phải đem về, chỉ cần mỗi tháng xem lại một lần, có khi sinh đẻ cũng không biết được là gia súc nhà mình. Trong khoảng vài năm, người đi đường không nhặt của rơi, cổng ngoài không phải đóng, được mùa liên tiếp, trong cõi tạm yên” (TT trang 595 bản điện tử).
Đây không phải là biện pháp giáo dục mà là biện pháp nghiêm cấm, răn đe vì sợ bạo loạn. Vì vậy tuy “trong cõi tạm yên” nhưng chỉ trong khoảng vài năm và bao trùm bầu không khí bất an khi người đi đường không thể tự vệ nếu bị tấn công hoặc khi gia súc sinh đẻ cũng không biết có phải là gia súc nhà mình, không ai dám mang về. Người được lợi ở đây là ai thiết nghĩ chúng ta đều biết…
Nhà Mạc có quan tâm đến việc thi cử và chọn nhân tài, nhưng những người có nghĩa khí như Nguyễn Bỉnh Khiêm dù đỗ trạng nguyên có ra làm quan nhưng cũng sớm cáo quan về trí sĩ ở làng Trung An tỉnh Hải Dương.


 II. Sự suy tàn của Triều đại nhà Mạc


Triều đại Mạc Phúc Hải (1541-1546): niên hiệu Quảng Hòa


Mạc Đăng Doanh làm vua được 10 năm thì mất (1530-1540), truyền ngôi lại cho con là Mạc Phúc Hải. Đến tháng 8 năm Tân Sửu (1541) Đăng Dung chết ở Cổ Trai, thọ 59 tuổi. Kể từ thời Mạc Phúc Hải trở đi nhà Mạc ngày một suy yếu, nhà Lê bắt đầu trung hưng. Năm 1543 vua Trang Tông thân chinh đánh Phúc Hải, thu phục được Tây Đô, đất nước chia đôi gọi là thời Nam Bắc Triều.
Phúc Hải không chăm lo việc nước nên Bắc triều ngày càng suy yếu, trong khi Nam triều được Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm (rể của Nguyễn Kim) giúp đỡ và rất nhiều hào kiệt hưởng ứng ngày càng mạnh lên.


Năm Ất Tỵ (1545) Nguyễn Kim đem quân đánh Sơn Nam, đi đến huyện Yên Mộ bị Dương Chấp Nhất là hàng tướng nhà Mạc đánh thuốc độc chết, binh quyền giao lại cho Trịnh Kiểm. Nguyễn Uông, con trưởng của Nguyễn Kim bị Trịnh Kiểm giết, em là Nguyễn Hoàng sợ liên lụy, xin vào trấn ở Thuận Hóa.
Trịnh Kiểm rút về Thanh Hoa (Thanh Hóa), chiêu mộ những người hào kiệt, luyện tập quân sĩ, tích trữ lương thảo để lo việc đánh nhà Mạc. Nhiều danh sĩ của Bắc triều đã vào giúp nhà Lê như Phùng Khắc Khoan (Trạng Bùng), Lương Hữu Khánh…(VNSL trang 296).


Năm Bính Ngọ (1546) Mạc Phúc Hải mất (làm vua được 6 năm), truyền ngôi lại cho con trưởng là Mạc Phúc Nguyên.
 
Triều đại Mạc Phúc Nguyên (1546-1561): niên hiệu Vĩnh Định


Phúc Nguyên còn nhỏ tuổi, bao nhiêu công việc lớn đều do chú ruột là Khiêm Vương Kính Điển quyết định. Tình hình Bắc Triều không mấy sáng sủa:
Nội bộ chia rẽ:
– Khi Phúc Hải chết, tướng Phạm Tử Nghi bàn nên lập vua lớn tuổi là Hoằng Vương Chính Trung (con trai thứ của Mạc Đăng Dung) nhưng các tôn vương nhà Mạc và Kính Điển không theo. Do đó Tử Nghi khởi loạn, chiếm cứ Ngự Thiên ở Hoa Dương, tiếm xưng tôn hiệu, ngụy lập triều đình. Phúc Nguyên cử Kính Điển và Nguyễn Kính phát binh đánh Tử Nghi, có Phụng quốc công Lê Bá Ly giúp sức mới đẩy lùi được. Tử Nghi rút về chiếm cứ An Quảng. Mạc Chánh Trung chạy sang Khâm Châu vào Lưỡng Quảng tố cáo tội trạng Nguyễn Kính chuyên quyền và xin cứu trợ. Vua Minh ra lệnh thu xếp cho Chánh Trung vào xứ Thanh Viễn và hàng năm phát gạo cho.
– Phụng quốc công Lê Bá Ly là vị tướng giỏi của Bắc triều đã dẹp tan được giặc Phạm Tử Nghi, uy thế lẫy lừng, con trai là Phổ quận công Khắc Thận, con rể là Văn Phái hầu Nguyễn Quyện, binh hùng tướng lực đều nằm trong tay. Giữa Lê Bá Ly và cha con Phạm Quỳnh, Phạm Dao có mâu thuẩn (vợ Phạm Quỳnh là vú sữa nuôi Kính Điển nên hai cha con Phạm Quỳnh, Phạm Dao được ân sủng chức quyền - theo ĐVTS trang 57). Phạm Quỳnh và Phạm Dao gièm pha với Kính Điển rằng con trai của Lê Bá Ly có ý phản nghịch, Kính Điển không tin thì hai người này đem ý trên gièm pha với Phúc Nguyên. Phúc Nguyên cho quân vây đánh Bá Ly. Bá Ly dẫn quân chiếm cửa quan Châu Tắc, yêu cầu xử tội Phạm Quỳnh, Phạm Dao. Phúc Nguyên không nghe lại bức bách Bá Ly. Bá Ly không còn lựa chọn nào khác, tháng 2 Tân Hợi (1551) cùng con là Phổ quận công Lê Khắc Thận đem quân về hàng vua Lê kèm theo bức họa địa hình tiến dâng (ĐVTS trang 59 bản điện tử), nhiều người tài giỏi cũng ùa theo như Đô quận công Nguyễn Thiến và con là Nguyễn Quyện, Nguyễn Phủ … Từ đó hào kiệt các nơi kéo đến hưởng ứng rất đông. (theo TT q.XVI trang 602)
Nhiều điềm xấu xuất hiện:
– Xứ Hải Dương luôn bị nạn binh hỏa, rất nhiều người phải lưu vong. (ĐVTS trang 56)
– Mùa hạ 1547 tháp Báo Thiên không vì cớ gì tự nhiên đổ lở.
– Mùa hạ 1548 ở các phủ Nam Sách, Thượng hạ tầng, Lý Nhân, Khoái Châu, Trường An đương lúc ban ngày trời bỗng tối sầm, không gian liền nổi tiếng ầm ầm, mưa đá đổ xuống sầm sập, làm hư hại lúa ngoài đồng… người và súc vật bị thương rất nhiều… (ĐVTS trang 57).
Ở Nam Triều vua Trang Tông thăng hà, thái tử Huyên lên ngôi ở Thanh Hoa tức vua Trung Tông lấy niên hiệu Thuận Bình (1549). Vua Trung Tông chỉ ở ngôi được 8 năm thì mất, không có con, dòng dõi họ Lê cũng không còn ai, binh quyền đều ở trong tay Trịnh Kiểm. Tục truyền Trịnh Kiểm muốn xưng làm vua nhưng còn lưỡng lự nên cho người lẻn ra Hải Dương hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm tức trạng Trình xem như thế nào. Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm không nói gì cả, chỉ ngoảnh lại bảo đầy tớ rằng “Năm nay mất mùa thóc giống không tốt, chúng mày nên tìm giống cũ mà gieo mạ”. Nói rồi lại sai đầy tớ ra bảo tiểu quét dọn chùa và đốt hương để ông ra chơi chùa, rồi bảo tiểu rằng “Giữ chùa thờ Phật thì được ăn oản”.
Sứ giả về kể lại, Trịnh Kiểm hiểu ý, cho người tìm con cháu nhà Lê và tìm được người cháu huyền tôn ông Lê Trừ (anh vua Thái Tổ) tên là Duy Bang, rước về lập lên làm vua tức vua Anh Tông. (VNSL trang297).
Lê Bá Ly sau khi đem con em họ hàng về Thanh Hoa quy thuận vua Lê, thăng đến chức “Khai phủ bình chương quân quốc trọng sự, chưởng triều đường chánh”, đến ngày 1 tháng 4 năm Đinh Tỵ (1557) qua đời, thọ 82 tuổi, được triều đình nhà Lê ban tờ chiếu tặng tước Nghĩa huân công, ban tên thụy là Trung Hựu. (ĐVTS trang 63)
Mùa thu tháng 7 năm Đinh Tỵ (1557) nhà Mạc sai Mạc Kính Điển (chú Mạc Phúc Nguyên) cầm quân đi đánh cướp ở Thanh Hoa, Phạm Quỳnh Phạm Dao đánh cướp ở Nghệ An nhưng thua nặng phải trở về.
Tháng 8 Thượng thư bộ Lại Thư quận công Nguyễn Thiến chết ở Thanh Hoa, con trai là Quyện và Miễn (TT ghi là Phủ) trốn về hàng Phúc Nguyên, được Phúc Nguyên phục chức và gả con gái tôn thất cho. (ĐVTS trang 63)
Tháng 9 Trịnh Kiểm đem 5 vạn quân thủy bộ ra miền giữa Sơn Nam đánh quân Mạc.
Năm Kỷ Mùi (1559) Trịnh Kiểm đem 6 vạn quân ra đánh mặt Bắc, lấy được những tỉnh Sơn Tây, Hưng Hóa, Thái Nguyên,Kinh Bắc, Lạng Sơn và các huyện ở mặt Hải Dương, tưởng sắp thành công, nhưng lại bị Mạc Kính Điển đem một đạo quân đi đường bộ vào đánh Thanh Hoa nguy cấp lắm, Trịnh Kiểm phải bỏ miền Bắc về giữ Tây Đô.
Hai bên cứ giữ nhau mãi: nhà Lê tuy đã trung hưng, nhưng giang sơn chưa thu lại được như cũ, nhà Mạc có làm vua thì cũng chỉ làm vua ở miền Bắc mà thôi. (VNSL trang 298) 


Triều đại Mạc Mậu Hợp (1562-1592): niên hiệu Thuần Phúc


Năm Tân Dậu (1561) Mạc Phúc Nguyên mất, con là Mạc Mậu Hợp lên nối ngôi khi còn nhỏ (2 tuổi-Theo ĐVTS trang 68 bản điện tử), có thể xem đây là vị vua cuối đời Mạc. Lúc này chính trị nhà Mạc đã mục nát vì Mạc Mậu Hợp là vị vua trẻ tuổi, bất tài, ham mê tửu sắc và bạc đãi công thần.
Chiến tranh hai miền Nam Bắc vẫn tiếp diễn, khi thì Trịnh Kiểm ra đánh Sơn Nam, khi thì Mạc Kính Điển vào đánh Thanh Hoa, không bên nào được hẳn.
Năm Canh Ngọ (1570) Trịnh Kiểm mất, giao binh quyền cho con là Trịnh Cối. Trịnh Cối bất tài, lại ham mê tửu sắc, tướng sĩ không mấy ai phục nên bị em là Trịnh Tùng đoạt quyền.
Khi hai anh em Trịnh Cối và Trịnh Tùng đánh nhau thì Mạc Kính Điển đem hơn 10 vạn quân vào đánh Thanh Hoa, Trịnh Cối liệu thế chống không nổi bèn đem quân đầu hàng họ Mạc, được giữ quan tước như cũ.
Quân Mạc thừa thế tiến lên đến sông Mã, tràn qua Hà Trung rồi vây đánh An Trường (thuộc huyện Thụy Nguyên) là chỗ vua Lê đóng.Vua Anh Tông về Đông Sơn, phong Trịnh Tùng làm tả thừa tướng, tiết chế chư quân để chống giữ với quân Mạc. Trịnh Tùng sai các tướng giữ mọi nơi, Mạc Kính Điển đánh mãi không được, lâu ngày hết lương thực đành phải rút về Bắc. Vua phong cho Trịnh Tùng làm Thái úy Trưởng quốc công (TT ghi là Trưởng quận công) và thăng thưởng cho các tướng sĩ. Lại sai ông Phùng Khắc Khoan đi chiêu tập các hoang dân ở Thanh Hoa về yên nghiệp làm ăn, chỉnh đốn việc chính trị. (VNSL trang 299)


Vua Anh Tông thấy Trịnh Tùng chuyên quyền rất lo. Lê Cập Đệ bàn với vua trừ họ Trịnh, nhưng Trịnh Tùng biết ý dùng mưu giết Lê Cập Đệ. Vua Anh Tông lo sợ, bèn cùng bốn hoàng tử chạy vào Nghệ An. Trịnh Tùng thấy vua xuất ngoại, cho người rước hoàng tử thứ năm là Duy Đàm ở làng Quảng Thi, huyện Thụy Nguyên về lập lên làm vua tức vua Thế Tông, rồi sai người đem binh đuổi theo vua Anh Tông, bắt được đưa về giết đi, nói rằng vua tự thắt cổ chết.
Trịnh Tùng thăng thưởng cho những người đồng đảng, rồi chia quân phòng giữ các nơi để chống nhau với quân Mạc. Từ năm Quý Dậu (1573) đến năm Quý Mùi (1583) Trịnh Tùng cứ giữ đất Thanh Hoa, Nghệ An, nhà Mạc nhiều lần đem quân đánh đều thất bại (VNSL trang 299-300).


Tháng 10 Canh Thìn (1580), Mạc Kính Điển mất (Kính Điển là ông chú của Mậu Hợp), đây là một tổn thất lớn cho Bắc triều vì Kính Điển là vị tướng có tài và đức độ, rất được quân sĩ kính trọng. Mậu Hợp đưa ông chú là Mạc Đôn Nhượng lên thay, đem quân vào đánh họ Lê, nhưng không được trận nào.
Dù nhà Mạc ngày càng suy yếu, Mạc Mậu Hợp vẫn tiếp tục con đường hoang dâm vô độ, bạc đãi công thần.


Đến năm Quý Mùi (1583) Trịnh Tùng thấy thế mình đã mạnh bèn cử binh mã ra đánh Sơn Nam lấy được thóc gạo đem về. Từ đó năm nào cũng ra đánh, bắt quân Mạc từ thế công chuyển sang thế thủ. Năm Tân Mão (1591) Trịnh Tùng quyết định cử đại binh (5 vạn quân) ra đánh Thăng Long.
Mạc Mậu Hợp cũng điều động hơn 10 vạn quân, sai Mạc Ngọc Liễn và Nguyễn Quyện lĩnh hai đạo đi làm tả hữu dực, Mậu Hợp dẫn trung quân đến đối trận với quân Trịnh Tùng. Quân Trịnh đánh rất hăng, quân Mạc chống không nổi, chết đến hàng vạn người, Mạc Mậu Hợp bỏ chạy. Quân Trịnh thừa thế đuổi tràn gần đến thành Thăng Long. Nhưng vì sắp đến tết Nguyên Đán Trịnh Tùng đình chiến cho quân sĩ nghỉ ngơi ăn tết.
Tháng giêng Nhâm Thìn (1592) Trịnh Tùng lập đàn tế trời đất, đặt ra ba điều cấm quân sĩ không được làm điều phi pháp với dân rồi mang đại binh ra Bắc tấn công Thăng Long lần thứ hai. Áp lực quân Trịnh quá mạnh, các mặt trận đều tan vỡ, quân Mạc chết như rạ, Mạc Mậu Hợp phải bỏ Thăng Long, vượt sông Hồng chạy đến Thổ Khôi (thuộc huyện Gia Lâm-Hà Nội), các tướng như Mạc Ngọc Liễn, Bùi Văn Khuê… bỏ thành mà chạy, tướng Nguyễn Quyện bị bắt sống (về sau phải chết trong ngục cùng con là Nguyễn Tín).” Trong kinh thành xác chất chồng lên nhau. Tướng tá chết chừng vài chục, sĩ tốt chết đến hơn nghìn người, khí giới bỏ ngổn ngang cao như quả núi, lâu đài cung điện nhà cửa sạch không.” (ĐVTS bản điện tử trang 88).
Tuy thắng trận nhưng Trịnh Tùng cho kéo quân về nghỉ ngơi, chờ thời cơ vì biết quân Mạc vẫn còn viện binh các nơi khác.
Về phía Mạc Mậu Hợp, tuy thua trận nhưng vẫn không bỏ được thói háo sắc. Nguyễn Thị Niên là con gái của tướng Nguyễn Quyện, vợ của tướng Bùi Văn Khuê, chị của Thị Niên là hậu của Mậu Hợp. Thế mà Mậu Hợp lại muốn chiếm đoạt Thị Niên nên ngầm tính mưu kế giết Văn Khuê. Văn Khuê biết ý, dẫn quân về giữ hạt Gia Viễn, không theo mệnh lệnh của triều đình. Mậu Hợp mấy lần vời cũng không tới, bèn sai tướng đem quân đến hỏi tội Văn Khuê.
Tháng 10, Văn Khuê trưng binh chống giữ, sai con trai chạy đến yết kiến phủ Tiết chế tố cáo sự tình, xin đầu hàng và xin cứu viện. Tiết chế Trịnh Tùng rất vui mừng, lập tức tâu hoàng đế để xin khởi binh, sai Hoàng Đình Ái dẫn một đạo quân đi trước để cứu Văn Khuê.
Tướng của Mậu Hợp là Định quận công Trần Bách Niên cũng về hàng Nam triều, tiếp đến có hơn 10 tướng Nam đạo sang hàng nhà Lê.
Áp lực Nam quân quá mạnh, quân Mạc không chống cự nổi, các mặt trận đều tan vỡ. Mạc Mậu Hợp bỏ kinh thành chạy trốn về huyện Kim Thành (Hải Dương), tông thất và quân sĩ nhà Mạc lũ lượt kéo nhau ra hàng. Thái hậu họ Mạc bị bắt, buồn rầu mà chết.
Mậu Hợp dựng con trai là Toàn làm vua, rồi trốn về ẩn ở chùa Mô Khuê hạt Phượng Nhởn, cuối cùng cũng bị bắt đem về Thăng Long, bêu sống 3 ngày rồi chém đầu tại bãi cát Bồ Đề, gửi đầu về Thanh Hoa, đóng đinh vào hai mắt bêu ở chợ.
Con của Mạc Kính Điển là Mạc Kính Chỉ nghe tin Mạc Mậu Hợp đã bị bắt, bèn tự lập làm vua đóng ở huyện Thanh Lâm chiêu mộ quân sĩ được sáu bảy vạn người, Mạc Toàn là con Mạc Mậu Hợp cũng theo về với Mạc Kính Chỉ (VNSL trang 303).
Trịnh Tùng thấy Kính Chỉ nổi lên, thanh thế to lắm, quan quân đánh mãi không được, bèn đem quân sang đánh ở huyện Cẩm Giang và huyện Thanh Lâm, bắt được Kính Chỉ và con cháu họ Mạc cả thảy hơn 60 người.
Trịnh Tùng về Thăng Long, sai quan vào rước vua Thế Tông ra Đông Đô, mở triều và thăng thưởng cho các tướng sĩ.
Năm sau tướng nhà Mạc là Mạc Ngọc Liễn tìm được con của Mạc Kính Điển là Mạc Kính Cung lập nên làm vua, chiếm giữ châu Yên Bác ở Lạng Sơn, nhưng một thời gian ngắn thì bị quân của Hoàng Đình Ái đánh dẹp phải chạy sang Long Châu cầu cứu nhà Minh.
Tuy nhờ nhà Minh bênh vực, Mạc Kính Cung chỉ giữ được mảnh đất nhỏ bé ở Cao Bằng.
Triều đại nhà Mạc tồn tại 65 năm (1527-1592) và bị xem là ngụy triều trong lịch sử Việt Nam. 
2/2016

 
Tài liệu tham khảo:
– Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (viết tắt: TT)
– Đại Việt Thông Sử (viết tắt ĐVTS)
– Việt Nam Sử Lược (viết tắt VNSL)

(st)
phannguyenquoctu
phannguyenquoctu

Tổng số bài gửi : 7587
Join date : 25/10/2010
Age : 56
Đến từ : Sài Gòn

Về Đầu Trang Go down

Việt Sử                 - Page 2 Empty Re: Việt Sử

Bài gửi  phannguyenquoctu Wed May 31, 2017 5:34 pm

phannguyenquoctu
phannguyenquoctu

Tổng số bài gửi : 7587
Join date : 25/10/2010
Age : 56
Đến từ : Sài Gòn

Về Đầu Trang Go down

Việt Sử                 - Page 2 Empty Re: Việt Sử

Bài gửi  phannguyenquoctu Wed May 31, 2017 5:39 pm

phannguyenquoctu
phannguyenquoctu

Tổng số bài gửi : 7587
Join date : 25/10/2010
Age : 56
Đến từ : Sài Gòn

Về Đầu Trang Go down

Việt Sử                 - Page 2 Empty Re: Việt Sử

Bài gửi  phannguyenquoctu Wed May 31, 2017 5:45 pm

phannguyenquoctu
phannguyenquoctu

Tổng số bài gửi : 7587
Join date : 25/10/2010
Age : 56
Đến từ : Sài Gòn

Về Đầu Trang Go down

Việt Sử                 - Page 2 Empty Re: Việt Sử

Bài gửi  Sponsored content


Sponsored content


Về Đầu Trang Go down

Trang 2 trong tổng số 4 trang Previous  1, 2, 3, 4  Next

Về Đầu Trang

- Similar topics

 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết